User Rating: 0 / 5

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive
 

.

Bài 1

秋山宵望

八靣村墟一嵿孤
纔登萬象入中都
風輕雲弄嫦娥影
霧霽天高北斗區
品物一天金世介
江山四顧玉輿圖
霜鳴何處秋声答
喚起欧陽澡思蘇

Phiên âm:

Thu Sơn tiêu vọng

Bát diện thôn khư nhất đính cô
Tài đăng vạn tượng nhập trung đô
Phong khinh vân lộng thường nga ảnh
Vụ tễ thiên cao bắc đẩu khu
Phẩm vật nhất thiên kim thế giới
Giang sơn tứ cố ngọc dư đồ
Sương minh hà xứ thu thanh đáp
Hoán khởi Âu Dương * táo tứ tô

Dịch nghĩa:

Đêm thu đứng trên núi trông

Tám mặt xóm làng một ngọn núi trơ trọi
Vừa leo lên đã thấy hình tượng muôn vàn thu vào chính giữa
Gió nhẹ những đám mây giỡn bóng Hằng Nga
Mù tan trục bắc đẩu nhô cao trên vòm trời
Đầy trời phẩm vật như một thế giới vàng
Bốn mặt non sông như một tấm dư đồ bằng ngọc
Một tiếng sương thu từ đâu đáp lại
Gợi nhớ đến bài phú của Âu Dương khi xưa.

Dịch thơ:

Đêm thu trên núi

Tám mặt xóm làng một đỉnh cao
Vừa lên trăm cảnh chợt thu vào
Mây vờn gió ghẹo vầng trăng sáng
Mù sạch trời quang bắc đẩu cao
Thế giới một bầu vàng khắp cõi
Non sông bốn mặt ngọc đồ bao
Sương rơi một tiếng thu đâu lại
Gợi nhớ Âu Dương phú thuở nào
.

Ghi chú:

*Âu Dương: tức Âu Dương Tu đời Tống (TQ) có bài phú "Tiếng thu" nổi tiếng

Bài 2

秋夜有感

山河寥落四無声
獨坐書堂看月明
何處秋風吹一葉
引來無限故園情

Phiên âm:

Thu dạ hữu cảm

Sơn hà liêu lạc tứ vô thanh
Độc tọa thư đường khán nguyệt minh
Hà xứ thu phong xuy nhất diệp
Dẫn lai vô hạn cố viên tình

Dịch nghĩa:

Cảm xúc đêm thu

Non sông bốn mặt lặng ngắt như tờ
Một mình ngồi trong nhà học ngắm trăng sáng
Gió thu từ đâu thổi một chiếc lá đến
Khêu gợi lên biết bao mối tình nhớ nhà

Dịch thơ:

Cảm xúc đêm thu

Non sông bốn mặt im lìm
Ngồi trong nhà học lặng nhìn trăng thanh
Gió thu chiếc lá lìa cành
Lòng man mác xiết bao tình nhớ quê

Bài 3

秋夜砧聲

更深霜重晏裘輕
四顧寒砧枕畔縈
搗月高低侵角嚮
隨風斷續散虫聲
驚回戍婦襄城夢
喚起征夫魏闕情
一種幽愁消未得
遠山何處又鐘鳴

Phiên âm:

Thu dạ châm thanh

Canh thâm sương trọng án cừu khinh
Tứ cố hàn châm chẩm bạn oanh
Đảo nguyệt cao đê xâm giác hưởng
Tùy phong đoạn tục bán trùng thanh
Kinh hồi thú phụ tương thành mộng
Hoán khởi chinh phu ngụy khuyết tình
Nhất chủng u sầu tiêu vị đắc
Viễn sơn hà xứ hựu chung minh

Dịch nghĩa:

Tiếng đập vải đêm thu

Canh khuya sương nặng áo cừu tía nhẹ
Tiếng đập vải bốn bề vang quanh bên gối
Dồn dập dưới trăng cao thấp át cả tiếng tù và
Theo làn gió đứt nối lẫn vào tiếng dế
Khua tỉnh giấc mộng Tương Thành của người thú phụ
Gợi dậy tình ngụy khuyết của kẻ chinh phu
Một thứ u sầu chưa tiêu tan được
Ở ngọn núi xa nào đó lại nghe tiếng chuông rền.

Dịch thơ:

Tiếng đập vải đêm thu

Canh khuya áo nhẹ sương dày
Nghe quanh bên gối tiếng chày gần xa
Thấp cao át tiếng tù và
Dưới trăng đứt nối lan hòa tiếng sâu
Mộng hồn thú phụ tan mau
Gợi tình ngụy khuyết mối sầu chinh phu
Khối buồn mãi chẳng tan cho
Núi xa đâu đó chuông chùa lại vang.

Bài 4

甲申中秋寓河內有感
寄同年举人吳金鼓人

十年此地此中秋
城郭依依景已殊
白燭紅燈迷遠近
素冠青蓋雜誰吾
蘇江有恨濤声急
濃領無情夜月孤
夜禁近聞严肅甚
詩翁曾意舊遊不

Phiên âm:

Giáp Thân trung thu ngụ Hà Nội hữu cảm
Ký đồng niên cử nhân Ngô Kim Cổ Nhân

Thập niên thủ địa thử trung thu
Thành quách y y cảnh dĩ thù
Bạch chúc hồng đăng mê viễn cận
Tố quan thanh cái tạp thùy ngô
Tô giang hữu hận đào thanh cấp
Nùng lĩnh vô tình dạ nguyệt cô
Dạ cấm cận văn nghiêm túc thậm
Thi ông tăng ý cựu du phầu

Dịch nghĩa:

Cảm nghĩ nhân dịp tết Trung thu năm Giáp Thân (1884)
ở Hà Nội viết gửi cho bạn đồng niên là ông cử họ Ngô
(Người làng Kim Cổ)

Cũng tết trung thu ta ở nơi đây mười năm về trước
Thành quách còn y nguyên nhưng cảnh đã khác
Nến trắng đèn đỏ lấp loáng như gần như xa
Mũ trắng dù xanh lẫn lộn ta với người
Sông Tô như giận tiếng sóng vỗ dồn dập
Núi Nùng vô tình mảnh trăng đêm trơ trọi
Lệnh cấm đi đêm gần đây nghe nghiêm ngặt lắm
Nhà thơ có còn nhớ cuộc đi chơi trước kia không?

Dịch thơ:

Hà Nội trước tết Trung thu năm Giáp Thân (1884)

Mười năm về trước cũng nơi đây
Thành quách như xưa cảnh đổi thay
Nến trắng đèn hồng trưng đấy đó
Dù xanh khăn đỏ lẫn tao mày
Dòng Tô nuốt hận dồn cơn sóng
Ngọn Lĩnh thờ ơ lạnh áng mây
Lệnh cấm đi đêm nghiêm ngặt lắm
Trước kia ông có nhớ chăng hầy?

Bài 5

秋熱

已過重陽氣尚温
含杯盡日倚柴門
綠環水帯疑將束
青染天衣不見痕
風水常如五六月
雨雷遠入两三村
歸來遂我田園趣
世事搔頭笑不言

Phiên âm:

Thu nhiệt

Dĩ quá trùng dương khí thượng ôn
Hàm bôi tận nhật ỷ sài môn
Lục hoàn thủy đới nghi tương thúc
Thanh nhiễm thiên y bất kiền ngân
Phong thủy thường như ngũ lục nguyệt
Vũ lôi viến nhập lưỡng tam thôn
Uy lai toại ngã điền viên thú
Thế sự tao đầu tiều bất ngôn

Dịch nghĩa:

Mùa thu trời nóng

Đã qua tiết trùng dương mà khí trời vẫn còn nóng (1)
Suốt ngày chỉ ngồi tựa cửa sài uống nước
Vòng nước biếc vây quanh tưởng như cái đai thắt lại
Da trời xanh biếc như chiếc áo không thấy vết khâu
Nắng gió vẫn như ngày tháng năm tháng sáu
Tuy có mưa sấm nhưng ở tận mấy làng xa
Về nghỉ là được thỏa cái chí điền viên của ta
Còn mọi việc trên đời có nghe thấy cũng chỉ gãi đầu mỉm cười không nói.

Chú thích:

(1) Trùng dương: cũng còn gọi là trùng cửu, tên một tiết, tức ngày mồng chín tháng 9 âm lịch hàng năm.

Dịch thơ:

Mùa thu nóng

Qua tiết trùng dương khí vẫn nồng
Suốt ngày tựa cửa uống rượu suông
Vây quanh dòng nước như đai thắt
Xanh biếc da trời chiếc áo nhung
Nắng gió nóng oi như giữa hạ
Sấm mưa xa mãi phía hừng đông
Trở về thỏa chí điền viên trước
Mọi việc trên đời biết cũng không.

Bài 6

中秋前一日與縣尹楊君
南帮武君舟中唱歌

入夜烟波未十分
孤舟蕩漾一風薰
半空篙櫓侵江月
满坐琴歌遏白雲
劇兴未應愁此老
幽懷聊為慰諸君
近来只欲南窗卧
瀟瑟胡笳不忍聞

Phiên âm:

Trung thu tiền nhất nhật dữ huyện doãn Dương quân
Nam bang vũ quân chu trung xướng ca

Nhập dạ yên ba vị thập phân
Cô chu đãng dạng nhất phong huân
Bán không cao lỗ xâm giang nguyệt
Mãn tọa cầm ca át bạch vân
Kịch hứng vị ưng sầu thử lão
U hoài liêu vị úy chư quân
Cận lai chỉ dục nam song ngọa
Tiêu sắt hồ già bất nhẫn văn

Dịch nghĩa:

Trước hôm trung thu một ngày cùng ông huyện họ Dương
và ông bang tỉnh Nam họ Vũ nghe hát ở dưới thuyền

Lúc chập tối trên mặt sông khói mới tỏa sóng mới gợn lăn tăn
Một con thuyền dập dờn trong làn gió nhẹ
Sào và chèo cao lưng trời lấn cả sóng trên sông
Tiếng đàn hát nhộn nhịp trong tiệc làm cho đám mây trắng ngừng lại
Hứng vui quá mạnh xin chớ lấy lão làm phiền
Nỗi lòng thầm kín chỉ mong làm khuây cho các bác
Gần đây chỉ muốn nằm khểnh trước cửa sổ phía nam
Những tiếng kèn hồ buồn rứt không muốn để lọt tai.

Dịch thơ:

Trước Trung thu một ngày đi nghe hát trên sông

Chập tối mặt sông khói sóng nhen
Một cơn gió nhẹ lướt con thuyền
Lưng trời sào mái sông trăng lấn
Đàn sáo đầy thuyền mây lắng yên
Cao hứng chớ lo phiền dạ lão
Lòng riêng những muốn thỏa anh em
Lâu nay chỉ muốn nằm chơi khểnh
Những thứ kèn hồ chẳng thích xem.

Bài 7

Thu tứ 1

秋 思

一聲萧瑟動高梧
去歲今朝景不殊
霄暵虛空青未了
斜陽煙水淡如無
少陵亂後詩聲苦
彭澤歸來酒興孤
甚矣吾衰無一事
出門聊復倩人扶

Phiên âm

Thu tứ (1)

Nhất thanh tiêu sắt động cao ngô
Khứ tuế kim triêu cảnh bất thù
Tiêu hán hư không thanh vị liễu
Tà dương yên thủy đạm như vô
Thiếu Lăng loạn hậu thi thanh khổ
Bành Trạch quy lai tửu hứng cô
Thậm hĩ ngô suy vô nhất sự
Xuất môn liêu phục thiến nhân phù

Dịch nghĩa:

Tiếng đâu xào xạc làm rung động ngọn cây ngô đồng
Hôm nay, năm nay so với hôm nay năm ngoái phong cảnh vẫn như nhau
Bầu trời quang đãng xanh ngắt một mầu
Dưới bóng chiều khói nước coi nhạt như không
Thiếu Lăng sau lọan lời thơ đau khổ
Bành Trạch về hưu hứng rượu chỉ có một mình
Ngán nỗi thân ta suy yếu không làm được gì
Mà khi ra cửa lại phải nhờ người nâng đỡ.

Dịch thơ:

Thu tứ 1

Gió buồn xào xạc cành ngô
Giờ này năm ngoái cũng như thế này
Bầu trời xanh ngắt mầu mây
Bóng chiều khói sóng nhạt vầy như không
Thiếu Lăng (1) sau loạn thơ buồn
Về hưu Bành Trạch (2) rượu suông một mình
Ta càng vô vị buồn tênh
Muốn đi chẳng cất nổi mình mà đi.

Chú thích:

(1)Thiếu Lăng: tức Đỗ Phủ, nhà thơ đời Đường
(2)Bành Trạch: tức Đào Tiềm, nhà thơ đời Tấn.

Bài 8

秋思

翠竹遶篱溪壑幽
北窗 獨坐對清秋
狂吟何必千人誦
縱飮難消萬古愁
平野地寬先得月
寒汀水浅不通舟
迷途暗恨歸來晚
一度江山一白頭

Thu tứ (2)

Thúy trúc nhiễu ly khê hác u
Bắc song độc tọa đối thanh thu
Cuồng ngâm hà tất thiên nhân tụng
Túng ẩm nan tiêu vạn cổ sầu
Bình dã địa khoan tiên đắc nguyệt
Hàn đinh thủy thiển bất thông châu
Mê đồ ám hận quy lai vãn
Nhất độ giang sơn nhất bạch đầu

Dịch nghĩa:

Tre xanh quanh giậu, khe ngòi êm tĩnh
Trước cửa sổ hướng bắc một mình ngồi ngắm thu trong
Thơ ngâm phiếm, không cứ gì phải hàng nghìn người đọc
Rượu uống tràn vẫn khó tan được mối sầu muôn thuở
Bãi bằng đất rộng được ngắm trăng sớm hơn
Bến lạnh nước nông thuyền không qua được
Đã trót lầm đường vẫn ân hận rằng quay về muộn quá
Cứ mỗi phen trải qua cảnh sông núi, lại một phen bạc đầu thêm.

Dịch thơ:

Tre xanh êm tĩnh rãnh ngòi
Ngắm thu cửa bắc ta ngồi giờ lâu
Thơ nghìn người đọc cần đâu
Rượu tràn cũng khó tan sầu nghìn năm
Bãi bằng sớm được ngắm trăng
Nước nông bến lạnh thuyền sang được nào
Lầm đường hận ở quá lâu
Một phen sông núi bạc đầu một phen.


29/10/2014
Đỗ Đình Tuân

 

 

Tìm các bài BIÊN KHẢO khác theo vần ABC . . .

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com