Các bức tranh chăn trâu này được sáng tạo trong thời nhà Tống (960-1279) và ngay từ đầu đã được xem như những bức hoạ tiêu biểu, trình bày tinh hoa, cốt tủy của Thiền Trung Quốc. Có nhiều bộ tranh chăn trâu khác nhau, nhưng có lẽ nổi danh nhất và cũng bao hàm ý nghĩa nhiều nhất là bộ với mười bức tranh của Thiền sư Khuếch Am Sư Viễn (廓庵師遠, ?-1150), bộ tranh này đã được lưu lại trong bản sao của họa sĩ người Nhật tên Châu Văn (周文, ?-1460).
Mười bức tranh sau được xem là của Thiền sư Khuếch Am Sư Viễn.
Những bức tranh này cũng được chú thích rất rõ, trong Thiền luận của Daisetz T. Suzuki, bản dịch của Trúc Thiên và Thích Tuệ Sỹ. và cũng đã được chuyển dịch sang Anh ngữ và người viết những hàng chữ này đã dựa theo đó dịch tạm sang Việt ngữ cùng viết bốn hàng thơ cho mỗi bức tranh.
Những lời chú thích đã được
1. Tìm Trâu 尋牛
尋牛
茫茫撥草去追尋。
水闊山遙路更深。
力盡神疲無處覓。
但聞風樹晩蟬吟。
Tầm Ngưu
Mang mang bát thảo khứ truy tầm
Thuỷ khoát sơn dao lộ cánh thâm
Lực tận thần bì vô xứ mịch
Ðãn văn phong thụ vãn thiền ngâm
Tạm dịch nghĩa:
Không nhắm mà gạt cỏ sang một bên để tìm.
Kìa là con sông rộng, những ngọn núi xa tắp và đường trở nên dài.
Kiệt sức và chán nản,
Nghe ve sầu cuối thu ca réo trong rừng phong.
Xào xào gạt cỏ ngóng tìm trâu
Núi lộ tắp xa sông nước sâu
Cạn sức mòn hơi nào có thấy
Bên tai réo rắt tiếng ve sầu
(SVÐG phỏng dịch tất cả mười đoản thơ)
2. Thấy Dấu 見跡
見跡
水邊林下跡偏多。
芳草離披見也麼。
縱是深山更深處。
遼天鼻孔怎藏他。
Kiến Tích
Thuỷ biên lâm hạ tích thiên đa
Phương thảo li phi kiến dã ma
Túng thị thâm sơn cánh thâm xứ
Liêu thiên tị khổng chẩm tàng tha
dịch nghĩa:
Bên mặt nước và dưới cây, có rất nhiều dấu vết.
Cỏ thơm mọc thật dày, nhưng có thấy con trâu không?
Ngay cả trong sâu thẳm của rừng núi xa xôi,
Làm thế nào mà mũi trâu có thể che giấu được?
Bên bờ mặt nước dưới tàn cây
Dấu vết còn lưu núi, cỏ bầy
Chẳng thể làm sao mà dấu được
Tìm nhìn mũi nó hỉnh ra đây
3. Thấy Trâu 見牛
見牛
黄鶯枝上一聲聲。
日暖風和岸柳青。
只此更無廻避處。
森森頭角畫難成。
Kiến Ngưu
Hoàng oanh chi thượng nhất thanh thanh
Nhật noãn phong hoà ngạn liễu thanh
Chỉ thử cánh vô hồi tị xứ
Sâm sâm đầu giác hoạ nan thành
dịch nghĩa:
Chim oanh bụi hót trên cành,nắng ấm, gió thổi nhẹ,
cây liễu xanh bên bờ sông,
không nơi nào trâu xổng có thể trốn,
nhưng cặp sừng lớn đó rất khó mà lôi được.
Chim oanh gióng tiếng hót trên cành
Nắng ấm ôn hòa gió nhẹ thanh
Liễu biếc sông dài trâu chịu trận
Nhưng sừng lớn quá khó lôi nhanh
4. Bắt Trâu 得牛
得牛
竭盡神通獲得渠,
心强力壯卒難除。
有時才到高原上,
又入煙雲深處居。
Ðắc Ngưu
Kiệt tận thần thông hoạch đắc cừ
Tâm cường lực tráng tốt nan trừ
Hữu thời tài đáo cao nguyên thượng
Hựu nhập yên vân thâm xứ cư
Với tất cả sức lực mình, tôi nắm bắt con trâu.
Ý chí trâu rất mạnh, quyền lực y vô tận, khó bị thuần hóa.
Đôi khi trâu cương trên tuốt đỉnh cao
Và trong sương mờ mịt thì hắn cứ ì ra,
Cố dùng sức lực kéo y đi
Ỷ mạnh trâu nghênh thật khó ghì
Lúc hướng lên cao thì mạnh tiến
Khói mờ lúc xuống lại nằm lì
5. Chăn Trâu 牧牛
牧牛
鞭索時時不離身。
恐伊縱歩惹埃塵。
相將牧得純和也。
羈鎖無拘自逐人。
Mục Ngưu
Tiên sách thời thời bất li thân
Khủng y túng bộ nhạ ai trần
Tướng tương mục đắc thuần hoà dã
Ki toả vô câu tự trục nhân
Không để buông roi hay sợi dây,
E sợ hắn đi lạc và sẽ chọn sương bụi.
Trâu được chăm sóc tốt trở nên hiền,
và thậm chí không buộc dây, sẽ theo được người.
Dây roi nắm chắc giữ bên thân
Để tránh cho trâu lạc lối trần
Khéo luyện trâu nay đà thuận thục
Nên dây buông lỏng vẫn đi gần
6. Cưỡi Trâu Về Nhà 騎牛歸家
騎牛歸家
騎牛沫汁欲還家。
霞笛聲聲送晩霞。
一拍一歌無限意。
知音何必鼓唇牙。
Kị Ngưu Quy Gia
Kị ngưu mạt trấp dục hoàn gia
Hà địch thanh thanh tống vãn hà
Nhất phách nhất ca vô hạn ý
Tri âm hà tất cổ thần nha
Cưỡi trâu đi, tôi nhàn nhã, hướng về nhà.
Giai điệu sáo ấm vang qua đám mây hoàng hôn.
Từng nhịp, từng giai điệu sâu trầm không thể tả.
Không cần từ nào cả với người hiểu âm nhạc.
Cưỡi trâu nhàn nhã trở về nhà
Tiếng sáo thanh âm nhập bóng tà
Tiết điệu từng giai dầu khó tả
Cần chi chữ vẫn hiểu cùng ta.
7. Quên Trâu Còn Người 忘牛存人
忘牛存人
騎牛已得到家山。
牛也空兮人也閑。
紅日三竿猶作夢。
鞭繩空頓草堂間。
Vong Ngưu Tồn Nhân
Kị ngưu dĩ đắc đáo gia san
Ngưu dã không hề nhân dã nhàn
Hồng nhật tam can do tác mộng
Tiên thằng không đốn thảo đường gian.
Cưỡi trên con trâu, nay đã về nhà.
Không có trâu đó, người cảm thấy thoải mái.
Mặc dù mặt trời chiếu trên cao, người vẫn còn mơ màng.
Bỏ rơi roi và dây trong túp lều rơm.
Cưỡi trâu thẳng đến chốn nhà an
Vật nghỉ người không việc quả nhàn
Rạng sáng đây trời còn đắm mộng
Dây roi nhác bỏ chẳng cần mang
8. Người, Trâu Ðều Quên 人牛俱忘
人牛俱忘
鞭索人牛盡屬空。
碧天遼闊信難通。
紅爐焰上爭容雪。
到此方能合祖宗。
Nhân Ngưu Câu Vong
Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không
Bích thiên liêu khoát tín nan thông
Hồng lô diệm thượng tranh dung tuyết
Ðáo thử phương năng hợp tổ tông
Roi, dây, người và trâu, tất cả đều không tồn tại.
Bầu trời xanh bao la,không có thông điệp nào có thể nghe,
Cũng như bông tuyết không thể tồn tại trong lò lửa đỏ rực.
Sau trạng thái này, một người có thể theo gót những người thầy thời xưa.
Roi thừng người vật cũng điều không
Bát ngát trời cao chẳng thể thông
Hoa tuyết không tồn trong lửa nóng
Rồi theo dấu gót thuộc đường tông
9. Trở Về Nguồn Cội 返本還源
返本還源
返本還源已費功,
爭如直下若盲聾。
庵中不見庵前物,
水自茫茫花自紅。
Phản Bản Hoàn Nguyên
Phản bản hoàn nguyên dĩ phí công
Tranh như trực hạ nhược manh lung
Am trung bất kiến am tiền vật
Thuỷ tự mang mang hoa tự hồng
Khi quay lại các nguyên tắc cơ bản và trở về nguồn,
Ta đã phải làm việc rất chăm chỉ.
Có lẽ có thể sẽ tốt hơn cho mù và điếc.
Đang ở trong túp lều, ta không nhìn thấy những gì bên ngoài.
Dòng sông chảy êm đềm, hoa chỉ đơn giản là màu đỏ.
Cội nguồn lắm bước chỉ hoài công
Khó sánh người câm thị giác nông
Nơi ẩn không nề hà sự vật
Dòng sông lặng lướt hiện hoa hồng.
10. Thõng Tay Vào Chợ 入廛垂手
入廛垂手
露胸跣足入鄽來,
抹土涂灰笑滿腮。
不用神仙真秘訣,
直教枯木放花開。
Nhập Triền Thuỳ Thủ
Lộ hung tiển túc nhập triền lai
Mạt thổ đồ khôi tiếu mãn tai
Bất dụng thần tiên chân bí quyết
Trực giáo khô mộc phóng hoa khai
Người đi chân trần vào thành phố,
Phô ngực không áo.
Phủ dầy tro bụi, miệng thì cười rộng.
Chẳng cần sức mạnh kỳ dệu của thần thánh và những người bất tử.
Cây khô rồi sẽ lại nở hoa.
Chân trần phơi ngực bước vào thành
Ðất trét bùn bôi miệng hỷ hành
Kỳ diệu thần tiên đâu đếm xỉa
Cây khô lại sẽ nở hoa lành.
**
1. In Search of the Bull
In the pasture of the world,
I endlessly push aside the tall
grasses in search of the Ox.
Following unnamed rivers,
lost upon the interpenetrating
paths of distant mountains,
My strength failing and my vitality exhausted, I cannot find the Ox.
2. Discovery of the Footprints
Along the riverbank under the trees,
I discover footprints.
Even under the fragrant grass,
I see his prints.
Deep in remote mountains they are found.
These traces can no more be hidden
than one's nose, looking heavenward.
3. Perceiving the Bull
I hear the song of the nightingale.
The sun is warm, the wind is mild,
willows are green along the shore -
Here no Ox can hide!
What artist can draw that massive head,
those majestic horns?
4. Catching the Bull
I seize him with a terrific struggle.
His great will and power
are inexhaustible.
He charges to the high plateau
far above the cloud-mists,
Or in an impenetrable ravine he stands
5. Taming the Bull
The whip and rope are necessary,
Else he might stray off down
some dusty road.
Being well-trained, he becomes
naturally gentle.
Then, unfettered, he obeys his master.
6. Riding the Bull Home
Mounting the Ox, slowly
I return homeward.
The voice of my flute intones
through the evening.
Measuring with hand-beats
the pulsating harmony,
I direct the endless rhythm.
Whoever hears this melody
will join me.
7. The Bull Transcended
Astride the Ox, I reach home.
I am serene. The Ox too can rest.
The dawn has come. In blissful repose,
Within my thatched dwelling
I have abandoned the whip and ropes
8. Both Bull and Self Transcended
Whip, rope, person, and Ox -
all merge in No Thing.
This heaven is so vast,
no message can stain it.
How may a snowflake exist
in a raging fire.
Here are the footprints of
the Ancestors.
9. Reaching the Source
Too many steps have been taken
returning to the root and the source.
Better to have been blind and deaf
from the beginning!
Dwelling in one's true abode,
unconcerned with and without -
The river flows tranquilly on
and the flowers are red.
10. Return to Society
Barefooted and naked of breast,
I mingle with the people of the world.
My clothes are ragged and dust-laden,
and I am ever blissful.
I use no magic to extend my life;
Now, before me, the dead trees
become alive.
Tóm lại
Trong Zen, cuộc tìm kiếm con trâu bị thất lạc của một người chăn gia súc được coi như một câu chuyện ngụ ngôn về sự theo đuổi giác ngộ của một hành giả kể từ lịch sử sơ khai của giáo phái Phật giáo này ở Trung Quốc.
Một thiền sư thời Tống là Guoan Shiyuan (khoảng năm 1150) đã hệ thống hóa câu chuyện ngụ ngôn thành mười đoản câu, được ghi lại và minh họa trong một cuốn sổ tay.
Trong giai đoạn cuối đại diện cho việc đạt được giác ngộ Phật giáo, người chăn trâu trở thành một Budai. biểu hiện của Đức Phật tương lai Miroku (tiếng Phạn: Maitreya). Cuộn giấy/sách có ghi niên đại đề năm 1278, là bản sao sớm nhất của truyện ngụ ngôn minh họa bằng tiếng Nhật được biết đến và là phiên bản duy nhất còn tồn tại có hình minh họa màu.
Và trong bức tranh cuối cùng, "Tăng và thả tay", chữ "廛" có nghĩa là thành phố và khu vực lân cận, tức là sau khi hành giả đã tìm được tâm, khôi phục khuôn mặt ban đầu và đắc đạo thì không nên ở lại chỗ cũ và trân tàng cho sự giác ngộ. Mà quay đầu lại, dũng cảm trở lại nhân gian, trở lại nguyên giới, tiếp tục cứu độ chúng sinh, tiếp tục "hành đạo cứu độ tất cả".
Tài liệu trên internet và từ:
https://en.wikipedia.org/wiki/Ten_Bulls