Trong bài I, chúng tôi đã phân tích bản tính tự do và độc lập của người đàn bà dân dã trong lãnh vực yêu đương, khác với tính phục tòng và lệ thuộc vào người cha, người chồng, hay người con trai trưởng của những người con gái trong những gia đình khuê các. Một câu nói thường xuyên trong những gia đình Nho giáo cổ truyền là “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” [Có được một người con trai là có, có được mười người con gái cũng như không]. Do đó, giá trị của người con gái, trong bối cảnh văn hoá Nho giáo cổ truyền, không thể nào ngang hàng với các “đấng” nam nhi. Ngược lại, người con gái thôn quê không những bình đẳng với nam nhi, nhất là trong lãnh vực tình cảm lứa đôi, mà, trong thực tế, còn có thể vượt trội hơn cả sự tự do của người con trai nữa. Con gái, đàn bà dân dã không những tự cho mình cái tự do gặp gỡ con trai và phát biểu những cảm tình yêu đương một cách thoải mái, mà - để có thể đi đến hôn nhân – còn tra hỏi gia cảnh, thử thách những hiểu biết thường thức như phong tục tập quán của người bình dân, thử thách sự hiểu biết về đạo đức cũng như sở học uyên bác của người con trai nữa.
Trong bài này, tính tự do và độc lập của người con gái, đàn bà thôn quê được khai triển rộng hơn qua phân tích những câu ca dao, tục ngữ phản ánh sự phản kháng đối với những tập tục do văn hoá cổ truyền không phù hợp với bản tính tự do và độc lập của người đàn bà vùng thôn quê. Một tập tục quen thuộc là hôn nhân do cha mẹ quyết định, điều hoàn toàn đi ngược lại với bản chất tự do và độc lập của người đàn bà dân dã.
Thực ra, người ta rất ít khi thấy hiện tượng cha mẹ quyết định hôn nhân trong những gia đình thuần tuý nông dân. Hiện tượng này chỉ xảy ra trong những gia đình tương đối khá giả, chịu ảnh hưởng phần nào của Nho giáo hay có thành viên trong gia đình là sĩ tử hoặc thầy đồ. Dù có hiện tượng cha mẹ quyết định hôn nhân, nhưng vì những gia đình này cận kề với thôn quê hay phát xuất từ giới nông dân trong thời gian gần đây nên vẫn còn lưu giữ bản tính tự do, độc lập cố hữu. Do đó, chúng ta thấy ngay ý thức phản kháng, thách thức tập tục này qua cách thức người con gái giành lấy quyền chủ động về phần mình trong việc hôn nhân:
Anh lui về têm năm miếng trầu cho tốt,
Chuốc một chén rượu cho đầy,
Đặt lên tràng kỷ, bàn xây.
Anh đứng đó, em lại đứng đây,
Để em thưa mẹ, em bẫm thầy,
Người có y tâm, chước lượng, bận nầy ta trao duyên.
Dầu thầy với mẹ không thương,
Đôi ta trải chiếu, lạy từ ngoài đường lạy vô.
Lạy cùng ông bác, ba cô,
Lạy cùng làng xóm, nói vô tôi nhờ.
Lạy cùng bà Nguyệt, ông Tơ,
Xe sao cho trọn, một giờ bén duyên.
Hai hàng nước mắt tuôn rơi,
Khóc lên thì sợ bạn cười đôi ta.
Việc này tại mẹ cùng cha,
Tại chú cùng bác, ông bà, anh em.
Mặc ai chia rẽ phận duyên,
Đôi ta cứ giữ lời nguyền sắt son.
Đôi ta như lúa đòng đòng,
Đẹp duyên nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha.
Đôi ta như chỉ xe ba,
Thầy mẹ xe ít, đôi ta xe nhiều.
Sự phản kháng việc cha mẹ quyết định hôn nhân - ngoài lí do thâm sâu là vi phạm bản chất tự do và độc lập trong quyết định quan hệ tình cảm của người đàn bà thôn dã - trong nhiều trường hợp, còn có căn nguyên rất hợp luận lí, như việc người con gái bị gả cho một người đàn ông mà mình chưa hề biết mặt hay một người còn ở tuổi ấu thơ.
Lấy chồng chẳng biết mặt chồng,
Đêm nằm tơ tưởng nghĩ ông láng giềng.
Cây cao lá nhỏ chi chi,
Chồng em nó bé, biết gì mà ghen.
Tối hôm qua nó vẫn chơi đèn,
Mua quà cúng mụ, còn ghen nỗi gì.
Ngoài ra lễ giáo ràng buộc còn bắt ép goá phụ, trong trường hợp chồng mất sớm, phải để tang chồng 3 năm mới được tái giá gây thiệt hại cho tuổi xuân xanh của người đàn bà. Người đàn bà dân dã có lí do chính đáng để đối kháng lại những câu thúc bất công này.
Lênh đênh chiếc lá giữa dòng,
Thương thân goá bụa, phòng không lỡ thì.
Gió đưa cây trúc ngã quỳ,
Ba năm trực tiết, còn gì là xuân!
Giàu thì thịt chả cơm canh,
Khó thì lưng rau, đĩa muối; cúng anh, tôi đi lấy chồng.
Thiếp sắm cho chàng cái tiểu hoa chanh,
Đôi đầu chữ thọ, xung quanh hoa hồi.
Lạy chàng tam tứ lạy chàng ôi,
Chàng đà thiệt phận, cho thiếp tôi đi lấy chồng.
Ở goá ba năm, lấy chồng hay ngủ
Hỡi anh chồng cũ tôi ơi,
Anh có khôn thiêng thì anh trở dậy ăn xôi, nghe kèn.
Thôi anh đã về nghiệp ấy, xin anh đừng ghen,
Để cho kẻ khác cầm quyền thê nhi.
Giàu thì thịt cá cơm canh,
Khó thì lưng rau đĩa muối, cúng anh tôi đi lấy chồng.
Hỡi anh chồng cũ tôi ơi!
Anh có khôn thiêng xin anh trở dậy ăn xôi, nghe kèn.
Thôi, anh đã về kiếp ấy, xin anh đừng ghen,
Để cho người khác cầm quyền thê nhi.
Miệng em khóc, tay em bế ẵm cái ông thần vì,
Tay em gạt nước mắt, tay em thì thắp nén nhang.
Bởi vì đâu mà em xót nỗi muôn vàn.
Chúng ta thấy nỗ lực của người đàn bà dân dã giành lại phần quyết định yêu đương và hôn nhân về phần mình càng lúc càng rõ nét:
Mẹ cha nói rứa mặc người,
Hai ta thương chắc lâu dài thì hơn.
Lên rừng bẻ mái, rút mây,
Bẻ mái, mái gãy; rút mây, mây giòn.
Lặn suối, trèo non,
Đi tìm quan họ.
Thầy mẹ tôi ép
Lấy chồng trong làng.
Tôi chỉ nói ngang
Chồng con chi vội
Để tôi đi hội
Hát đúm chơi bời
Tôi ước tìm người
Bao dong [dung], lịch sự.
Tôi ước tìm người
Quân tử làng thôi.
Tôi ước tìm người
Mười chín đôi mươi.
Nhà em năm bảy chị em,
Bác mẹ còn thèm một chút rể xa.
Em là con gái thứ ba,
Thầy mẹ tính gả chồng xa, xứ người.
Thấy chàng đẹp nết, tốt tươi,
Tươi quần, tươi áo, tươi đôi má hồng.
Ví dù chàng hãy còn không,
Để em xin tới vườn hồng hái hoa.
Những câu sau đây cho ta thấy là ý muốn của cha mẹ không còn và không thể là rào cản tự do yêu đương của người phụ nữ thôn dã nữa:
Em đây là gái má đào,
Hỏi anh đã có chốn nào hay chưa?
Để em ngày nhớ, đêm chờ,
Vừa đôi, ta định, ông Tơ sá gì.
Tay cầm tấm mía tiện tư,
Nửa thời nấu mật, nửa dư nấu đường.
Em thương, thầy mẹ chẳng thương,
Nào em có quản quê hương xa gần.
Rượu ngon rót lấy chín tuần,
Lòng em đã quyết mười phân lấy chàng.
Cho dầu cha mẹ không ưng,
Đèn chai nhỏ nhựa, em cùng lăn vô.
Dầu mà cha mẹ không dung,
Đèn chai nhỏ nhựa, em cùng lăn vô.
Dầu mà cha mẹ không chiều,
Đó vong thân đó, đây liều thân đây.
Rau răm ngắt ngọn còn tươi,
Rượu ngon chuốc chén, đợi người tri âm.
Đôi đũa em đã toan cầm,
Chàng lấy một chiếc cho lòng em mê.
Về nhà, cha đánh, mẹ chê,
Nhưng em chỉ quyết một bề lấy anh.
Cây xanh thì lá cũng xanh,
Đã trót vin cành thì phải hái hoa.
Đôi ta như miếng trầu cau,
Dấu thầy, dấu mẹ, đưa sau bóng đèn.
_Lại đây anh hỏi cho rành,
Cửa nhà gia thất em thành hay chưa?
Má hồng hương thoảng gió đưa,
Hỏi nàng có chốn hay chưa, hỡi nàng?
_Khoan khoan, anh hãy xê ra,
Để em kể hết chuyện nhà anh hay.
Phủ Hà [thuộc thanh Hoá] quê quán xưa nay,
Mẹ cha đã định những ngày còn thơ.
Bởi vì duyên kiếp hững hờ,
Số mình đã lỗi, ông Tơ lại lầm.
Thuyền son đậu phải vũng đầm,
Tai trâu mà gảy đàn cầm biết chi!
Vậy nên em phải ra đi,
Đến đâu, ai kẻ thượng vì sẽ hay.
Chim thằng chài có ngày mắc bẫy,
Em cho hay rằng anh hãy lánh xa.
Mẹ cha không thể chịu hoà,
Em đâu dám cãi, vậy mà theo anh.
Nhớ hồi mẹ đẻ thiếp ra,
Nhai cơm sún nước, lớn mà chừng ni.
Nghe lời chàng, bỏ mẹ ra đi,
Thất hiếu với phụ mẫu, có hề chi không, huở [hỡi] chàng?
Em về thưa với thung huyên,
Chốn này ta đã thành duyên nhau rồi.
Anh về thưa với ông bà,
Lễ chưa sính lễ, đôi đà nên đôi.
_Duyên ta là ngãi tình cờ,
Bấy lâu luống những ngẩn ngơ chờ nàng.
Gặp nhau đây, đá thử vàng,
Miếng trầu thết đãi, dạ mang chữ tình.
_Tương tư buồn bực trong mình,
Sợ thầy, hãi mẹ, làm thinh vui cười.
Quên sầu, thiếp gượng làm tươi,
Đồ huê nguyệt, sợ miệng cười thế gian.
Trốn cha, trốn mẹ, theo chàng,
Vì chàng nên thiếp lạc ngàn đến đây.
Bao giờ quế mọc xanh cây mới về.
Đã đành nên thiếp, nên thê,
Nên khăn, nên gối, không vê cũng tròn.
Non mòn, nhưng ngãi không mòn.
Mẹ cha bú mớm nâng niu,
Tội Trời thì chịu, không yêu bằng chồng.
Buồn ngủ lại gặp chiếu manh,
Vừa khi chồng để, gặp anh giữa đường.
Qua những câu ca dao tiếp theo sau đây, chúng ta thấy rõ là sự tự do và độc lập trong tình yêu đôi lứa của “gái quê” vượt qua mọi lễ nghi và tập tục mà Nho giáo đã tạo nên nhưng không trấn áp được bản chất tự do của người đàn bà dân dã Việt Nam.
Kim may vào áo mất rồi,
Tiếc công thầy mẹ lại ngồi chọn kim.
Về nhà cha đánh, mẹ hò,
Nhưng em chẳng bỏ trai đò được đâu.
Trai đò đẹp lắm, mẹ ơi!
Quần thâm, áo trắng cho tôi phải lòng.
Em thương anh dù cha mẹ có quấn tóc kèo nhà,
Đánh bằng roi sắt, xa mà không xa.
Chừng nào roi sắt trổ hoa,
Cây khô nở nhuỵ, đôi đứa ta mới lìa.
Hai đứa mình một lòng một bụng,
Không như gà đưa trụng nước sôi.
Dầu cho thầy mẹ có đan giỏ thả trôi,
Thả thì mặc thả, thiếp không thôi nghĩa chàng.
Em thương anh, cha mẹ cũng phải theo,
Chiếc tàu buồm kia đang chạy, quăng neo cũng ngừng.
Dù cho cha đánh ngõ đình,
Mẹ ngăn ngõ chợ, đôi đứa mình đừng xa.
Cương thường chi lắm, anh ơi!
Chớ nghe thiên hạ nói chơi mà buồn.
Dẫu cho lỗi đạo cang thường,
Lòng em ghi tạc tào khương nghĩa dày.
Sự tự do và độc lập trong tình yêu đôi lứa của người đàn bà dân dã không những được biểu lộ bằng sự phản kháng tập tục cha mẹ quyết định hôn nhân, mà còn được thể hiện qua những phát biểu quan điểm là quan hệ sinh lý giữa trai gái hay giữa vợ chồng với nhau chỉ là một sự kiện tự nhiên của con người, điều mà người con gái khuê các không có can đảm đề cập đến - ngoại trừ trường hợp độc nhất vô nhị là Hồ Xuân Hương - vì, theo tiêu chuẩn của lễ giáo cổ truyền, là điều cấm kỵ.
_Đã mời, không lẽ không vào,
Sông sâu chả biết, có sào cắm chưa?
-biết là anh ở mô đây,
Cớ chi lại hỏi sông này sâu nông?
Phận em là gái chưa chồng,
Làm chi đã biết sâu nông thế nào.
Lấy chồng từ thuở mười ba,
Chồng chê tôi bé, chẳng nằm với tôi.
Đến năm mười tám, đôi mươi,
Tôi nằm dưới đất, chồng lôi lên giường.
Một rằng thương, hai rằng thương,
Có bốn chân giường, gãy hết một còn ba.
Ai về nhắn nhủ mẹ cha,
Chồng tôi nay đã giao hoà cùng tôi.
Chuột kêu chút chít sau rương,
Anh đi cho khéo đụng giường mẹ hay.
Chuột kêu chút chít trong vò,
Lòng anh có muốn thì mò lại đây.
Người phụ nữ thôn quê cũng còn thách thức ngay cả một quy phạm quan trọng của lễ giáo cổ truyền là phải là vợ chồng rồi mới được quyền có quan hệ sinh lí:
_Đói lòng ăn trái khổ qua,
Nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười.
-Bạn cười thì mặc bạn cười,
Tháng Năm đi cưới, tháng Mười có con.
_Thôi thôi xếp sách đi về,
Học hành chi nữa chúng chê bạn cười.
_Bạn cười thì mặc bạn cười,
Tháng Năm đi cưới, tháng Mười có con.
Lẳng lơ, chả một mình tôi,
Thanh Lâm, Đồng Sớm cũng hai ba người.
Nói ra, sợ chị em cười,
Lấy chồng tháng Chín, tháng Mười có con.
Khi vui, non nước cũng vui,
Khi buồn, sáo thổi kèn đôi cũng buồn.
Khi buồn, non nước cũng buồn,
Khi vui gánh đá lên nguồn vẫn vui.
Trăng lên nhu nhú đầu non,
Số em là số sớm con, muộn chồng.
Buồn rầu, buồn rỉ, buồn nỉ, buồn non,
Buồn vì một nỗi sớm con, muộn chồng.
_Thuyền ai dù ngược dù xuôi,
Có về Nam Định cho tôi về nhờ.
_Sao cô ăn nói ỡm ờ,
Thuyền anh chật chội, còn nhờ làm sao.
Miệng nói tay anh bẻ lái vào,
_Rửa chân cho sạch, bước vào trong khoang.
Thuyền dọc anh trải chiếu ngang,
Anh thời nằm giữa, hai nàng hai bên.
Phềnh phềnh bụng giữa lớn ra,
Mẹ ơi! Con chả ở nhà được đâu!
Phềnh phềnh lớn giữa lớn ra,
Mẹ ơi con chẳng ở nhà được đâu.
Ở nhà làng bắt mất trâu,
Cho nên con phải đâm đầu ra đi.
Không trơn mà trượt mới tài,
Không chồng mà đẻ con trai mới tình.
Đất khô đi bộ mới tài,
Không chồng mà có con trai mới tình.
Không chồng mà chửa mới ngoan,
Có chồng mà chửa, thế gian sự thường.
Thiên kia chưa trồi đầu thượng,
Liễu nọ đã nảy nét ngang
Thôi thôi vô thưa lại với huyên đường,
Dù có sinh ba [hoa] nở nhuỵ, thiếp với chàng chịu chung.
Sông Mơ, sông Mận, sông Đào,
Ba ngọn sông ấy chảy vào tuần ty.
Tôi trót yêu anh, bụng đã phát phì,
Thuốc thang đâu khỏi anh thì bảo tôi.
Trót yêu anh, dễ đứng, khó ngồi.
Rủ nhau đi cấy xứ đoài,
Công lênh chẳng được, được vài mụn con.
Đem về bế bế, hôn hôn,
Đánh tiếng ứ hự rằng con xứ Đoài.
Đối với người đàn bà dân dã, tình yêu là hiện tượng tự nhiên của con người. Tình yêu và gần gũi đưa đến quan hệ sinh lí, mặc dù cũng có người còn mang dấu ấn của lễ giáo cổ truyền than phiền là:
Gái đâu có gái lạ đời,
Chỉ còn thiếu một ông Trời không chim.
Gái đâu có gái lạ đời,
Chỉ thiếu một ông Trời không chim.
Thổ công Hà bá cũng nhìn,
Tề thiên Đại thánh cũng chim làm chồng.
Nhưng nhận định về thực trạng sinh lí của người đàn bà dân dã hoàn toàn mang tính chất hiện thực:
Người dưng ơi hỡi người dưng,
Bánh dầy phải lửa thì sưng phồng phồng.
_Hoa kia tươi tốt rườm rà,
Tuy rằng tươi tốt, khi mà ong châm.
_Anh ở trong ấy, anh ra,
Cớ sao anh biết vườn hoa chị tàn?
Hoa tàn, nhưng chị chưa tàn,
Muốn xem, chị vén bức màn cho xem!
Cho nên thái độ và cách hành sử của “gái quê”, trong một số trường hợp, là khẳng định tự do quan hệ lứa đôi về phương diện tình cảm cũng như sinh lí như là những sự kiện thiên nhiên.
Còn trời, còn nước, còn non,
Còn trăng, còn gió, đây còn lẳng lơ.
Lả lơi cho rách yếm ra,
Về nhà dối mẹ yếm thông hoa không bền.
Chửa quen, đi lại cho quen,
Tuy rằng cửa đóng mà then không gài.
Ai kêu vòi vọi bên sông,
Tôi đang bắt chấy cho người tình nhân.
Chửa quen, đi lại cho quen,
Tuy rằng cửa đóng mà then không cài.
Kẻ khinh, người trọng vãng lai,
Song le cũng chửa có ai bằng lòng.
Anh về sương gió lạnh lùng,
Ở đây chung gối, chung mùng với em.
Cầm lược thì nhớ đến gương,
Cầm khăn nhớ túi, nằm giường nhớ nhau.
Dù mà trại muối lều tranh,
Lòng em đã quyết với anh cang thường.
Khoát màn loan, bước cẳng lên giường,
Thương mình quá độ, quên đường tử sanh.
Bước vô phòng bạn lạnh tanh,
Nghiêng mình nằm xuống tử sanh nhờ trời.
Tôi tới đây đầu lạ sau lùng,
Bước cẳng vào mùng, đầu lạ sau quen.
Áo đà nhuộm phải phèn đen,
Ban đầu bợ ngợ, sau quen cố lì.
Tôi tới đây mạn kéo, mạnh trì,
Lân la với bạn, tội gì chịu thua.
Liễn Tàu vụng chấm nên lem,
Bởi anh chậm bước nên em hư rồi.
Bây giờ em nguyện chứng có ông Trời,
Phen nầy em quyết ở trọn đời với anh.
Tuy nhiên, sự tự do và độc lập trong lãnh vực yêu đương và sinh lí của người đàn bà dân dã Việt Nam như được phản ánh qua những câu ca dao, tục ngữ tiếp theo sau đây, trong một số trường hợp, đã vượt quá những giới hạn mà hầu như bất cứ nền văn hoá nào trên thế giới, ngoại trừ một vài trường hợp rất đặc thù, cũng khó có thể chính thức chấp nhận được. Những trường hợp này được phản ánh qua một số khá nhiều câu ca dao và tục ngữ, nhưng quan sát thực tế ở đồng quê trước 1975 không cho phép tổng quát hoá là đa số người đàn bà dân dã Việt Nam đều hành sử theo lập trường là dù đã có chồng, có con, vẫn có quyền tự tiện lả lơi, ong bướm. Những mô tả này có thể được cắt nghĩa trên căn bản tâm sinh lí là một số rất ít trong số những người đàn bà dân dã đã có những đòi hỏi sinh lí quá mạnh, khác với người bình thường. Nhưng mặt khác, dựa trên quan điểm tâm lí xã hội học, thì đa số người đàn ông Việt Nam nếu không “năm thê, bảy thiếp” thì, dù đã có vợ con, vẫn “gái gú” không biết bao nhiêu mà kể, và xã hội nếu không dung túng thì cũng không kết án nặng nề những hành vi này. Ngược lại, người đàn ông còn thường được xã hội mặc nhiên chấp nhận có quyền khiển trách và trừng phạt hành vi ngoại tình của người đàn bà.
Trong những bài “Chung thuỷ, Một Đặc tính về Tình Yêu của Người Đàn bà Việt Nam”1, “Tính Chuyên nhất trong Tình yêu của Người Đàn bà Dân dã Việt Nam”2, “Xả Thân là Bản tính Chính yếu của người Đàn bà Việt Nam”3 của Nguyễn Văn Thái, tác giả đã phân tách bản tính cốt lõi của người đàn bà dân dã Việt Nam, qua rất nhiều bằng chứng ca dao và tục ngữ, là lòng chung thuỷ trong tình yêu bao gồm cả những hi sinh lớn lao của bản thân để bảo vệ tình yêu. Đáng tiếc là người đàn ông đáp ứng lại sự yêu thương và hi sinh này bằng cách thường xuyên dấn thân vào những thú vui rượu chè, cờ bạc, trai gái, và hút xách (thuốc phiện), như đã được khai triển trong bài “Văn chương Bình dân như là Văn hoá Đối kháng, III”4. Tác giả Nguyễn Văn Thái đã phân tách sự phản kháng mạnh mẽ và quyết liệt của người đàn bà dân dã đối với những ương ngạnh này của giới đàn ông.
Và qua những câu ca dao sau đây, chúng ta thấy rõ yếu tố phản kháng của người đàn bà trong việc giành lại cái quyền tự do và độc lập cho mình, trong quan hệ lứa đôi, cũng như phản kháng - với những biện minh luận lí dựa trên thực trạng thiên nhiên - sự trừng phạt của người đàn ông bằng cách thuyết phục người đàn ông nên dùng tình yêu thay vì bạo lực trong cách ứng xử:
Đẻ đứa con trai
Chẳng biết nó giống ai:
Cái mặt thì giống ông cai,
Cái đầu ông xã, cái tai ông trùm.
Dang tay đánh thiếp sao đành,
Tấm rách ai vá, tấm lành ai may?
Con người cũng như con ta,
Đừng đánh, đừng đấm, nhẩn nha mà cù.
Anh đánh thời tôi đau đòn,
Cái lòng hoa nguyệt, chín mười con tôi cũng chẳng chừa.
Lẳng lơ, đeo nhẫn chẳng chừa,
Nhẫn thì rơi mất, lẳng lơ hãy còn.
Anh đánh thì em chịu đòn,
Tính em hoa nguyệt, mười con chẳng chừa.
Chẳng nên, tình trước, nghĩa sau,
Có con, ta gả cho nhau, thiệt gì!
Lẳng lơ mới có con bồng,
Nhu mì như chị, nằm không cả đời.
Chàng như con én trong cung,
Em như con rồng chạm quấn bao lơn.
Dù rằng chàng có vợ con,
Em nay là gái còn con đứng ngoài.
Đồn rằng chàng mắc hồng gai,
Liệu chàng có gỡ ra ngoài được không?
Hỡi anh đi đường cái quan,
Dừng chân đứng lại, em than vài lời:
Đi đâu vội mấy, anh ơi!
Việc quan đã có chị tôi ở nhà.
Rau răm ngắn ngọn tại trồng,
Em thương anh lắm, sợ lòng chị ghen.
Anh về, bảo chị đừng ghen,
Để em thấp thoáng bóng đèn cho vui.
Vợ anh, em chẳng dám bì,
Vợ anh, vàng bảy; em thì than ba.
Ước gì ta ở một nhà,
Để xem vàng bảy, than ba thế nào!
Vàng bảy anh vứt xuống ao,
Than ba anh để võng đào anh đưa.
Dù ai đi sớm về trưa,
Anh ngồi nghỉ mát mà đưa võng đào.
Anh khôn, nhưng vợ anh đần,
Lấy ai lo liệu xa gần cho anh.
Anh khôn mà vợ anh đần,
Lấy ai đãi khách xa gần cho anh.
Em thấy anh, em cũng muốn thương,
Chỉ sợ mắc mối tơ vương ở nhà.
Anh về gỡ mối vương ra,
Rồi mai em sẽ giao hoà với anh.
Anh về rẫy vợ anh ra,
Thì em bỏ cửa, bỏ nhà theo anh.
Hỡi anh áo trắng vân vân,
Đi về dẹp vợ cho quân em vào.
Vợ anh có hỏi quân nào,
Ta là quân tải tìm vào hái hoa.
Có nên ta hái dần dà,
Chả nên ta hái ba hoa ta về.
Chồng em với em là tình,
Anh đây là nghĩa, hỏi mình thương ai?
Một mình em đứng giữa hai,
Bên tình, bên nghĩa, em thương hết, chớ bỏ ai, hở mình!
Nhức đầu đặt lá tiền sanh,
Tội trời tôi chịu, thương anh hơn chồng.
Khăn lau nước mắt ướt mèm,
Xuống lên không đặng vì em có chồng,
Hai bên nhân nghĩa đạo đồng,
Nghĩa em không phụ, đạo đồng em không quên.
Không phải người đàn bà dân dã không ý thức được những câu thúc thực tế của việc yêu chồng người khác.
Làm thân con gái phải lo,
Mùa đông rét mướt, ai cho mượn chồng.
Áo người mặc đoạn cởi ra,
Chồng người ấp mượn, canh ba lại hoàn.
Chồng người mượn chẳng được đâu,
Mượn tối hôm trước, hôm sau người đòi.
Người đòi, người chả đòi không,
Chém cha con đĩ cướp chồng trả tao.
Chàng về, có thiếp dời chân,
Thiếp về kẻo sợ phu quân ở nhà.
Cho nên, biết là hiện thực không đáp ứng được dự tính chiếm đoạt chồng của người khác, nên phát biểu đối kháng của người đàn bà dân dã chỉ có thể phản ánh được ước mơ:
Ngồi buồn rút ruột thở dài,
Nhớ chồng thì ít, nhớ trai thì nhiều.
Ước gì dải yếm em dài,
Để em buộc lấy những hai anh chàng.
Và những ước mơ này dù là vì lí do bản chất sinh lí khác thường của một số ít người đàn bà dân dã hay vì lí do bất mãn của đại đa số phụ nữ thôn quê dẫn đến đối kháng sự bất công trong cách thức ứng xử của người đàn ông thì, dù sao trên phương diện ngôn từ, cũng đã vượt quá những công ước xã hội.
Tuy nhiên, điều quan trọng cho việc cắt nghĩa hiện tượng này là trong thực tế, người ta hiếm khi chứng kiến những hành vi chiếm đoạt chồng người hay sự lăng loàn như sau đây xảy ra, nhất là ở những cộng đồng thôn quê.
Anh có tiền cho em mượn ít đồng,
Mua gan công, mật cóc thuốc chồng theo anh.
Lấy chồng chẳng lấy một chồng,
Lấy anh hàng thịt ăn lòng sớm mai.
Lấy ai thì chẳng một chồng,
Lấy anh câu ếch nằm trong xí xoài.
Lòng ta muốn lấy thợ kèn,
Đám sang thì bánh, đám hèn thì xôi.
Lòng ta muốn lấy thợ sơn,
Một mình một cỗ lại hơn thợ rèn.
Những câu ca dao cuối cùng này không phản ánh một nhu cầu sinh lí khác thường mà phản ánh một sự bất mãn tột độ về bản chất của người đàn ông và về sự bất lực của những anh đàn ông không đủ khả năng chu cấp những nhu cầu sinh tồn căn bản của đời sống cho vợ mình.
Và sự bất mãn thể hiện qua hình thức đối kháng này được phơi bày rõ nét hơn cả qua những câu như:
Làm trai rửa bát, quét nhà,
Vợ gọi thì dạ, bẩm bà tôi đây.
Không lấy cũng khuấy cho hôi,
Làm cho bể trách, bể nồi mà chơi.
Tóm lại, những gia đình tương đối khá giả ở vùng nông thôn chịu ảnh hưởng trực tiếp của nền giáo dục Nho giáo cổ truyền đã áp dụng tập tục cha mẹ áp đặt hôn nhân cho con cái, nhất là cho con gái. Nhưng bản chất độc lập và tự do của phụ nữ thôn quê đã thúc giục họ phản kháng lại tập tục này bằng cách giành lại phần chủ động cho mình qua hành động tự ý khởi xướng ý muốn thành hôn trước mặt cha mẹ hay lạy lục cha mẹ cho đến khi cha mẹ đồng ý. Rồi phản ứng đối kháng này cứ tiếp tục xảy ra một cách tiệm tiến đến giai đoạn là đôi trai gái tự quyết định hôn nhân, bất kể ý muốn hay hành động của cha mẹ là gì. Phân tích văn học bình dân cho ta thấy là phản kháng này có nguyên nhân sâu xa là sự vi phạm đến quyền tự do và độc lập, bản chất cốt lõi, của người phụ nữ thôn quê. Ngoài ra còn có những nguyên nhân cụ thể khác như sự quyết định hôn nhân của cha mẹ thường đưa đến hệ quả là có khi người con gái phải lấy một người chồng mà mình chưa hề biết mặt, hay là phải lấy một anh chồng còn ở tuổi ấu thơ của một đứa “con nít”.
Một uẩn khúc khác của người đàn bà, nói chung, là trong trường hợp chồng mất sớm thì lễ giáo ép buộc người đàn bà phải để tang chồng 3 năm trước khi được phép tái giá. Trong trường hợp người đàn bà còn rất trẻ mà phải đợi 3 năm thì sự ràng buộc này sẽ gây tổn hại cho tuổi xuân xanh và làm mất cơ hội của người đàn bà tái lập yêu đương để có một gia đình hạnh phúc mới. Người đàn bà dân dã đã đối kháng lại câu thúc lễ giáo áp đặt này.
Không những đối kháng việc cha mẹ quyết định hôn nhân và lễ giáo áp đặt tang chế 3 năm cho chồng, người đàn bà dân dã còn khẳng định sự độc lập và tự do của mình trong việc quyết định hôn nhân, trong việc quyết định quan hệ tình cảm cũng như sinh lí ngay khi còn là những thiếu nữ hay cả khi đã có gia đình rồi. Điều này có nghĩa là người phụ nữ thôn quê tự cho mình cái quyền chiếm đoạt chồng của người khác. Và đã có khá nhiều câu ca dao, tục ngữ phô diễn quan điểm này. Tuy nhiên, như đã có phân tích ở phần trên, tự do về sinh lí đến mức này có thể được cắt nghĩa là một thiểu số phụ nữ có đòi hỏi bẩm sinh về sinh lí quá cao hay cũng có thể chỉ là chỉ dấu của phản ứng đối kháng hành vi áp đặt của giới “mày râu.” Tác giả của bài này có khuynh hướng nghiêng về giải thích thứ hai. Số lượng khá nhiều những câu ca dao, tục ngữ phát biểu tự do sinh lí quá trớn có thể được hiểu là quan điểm tự do sinh lí không giới hạn rất phổ quát và được nhiều phụ nữ hỗ trợ. Nhưng một quan điểm phổ quát và được nhiều người hỗ trợ không khẩn thiết là được nhiều người thực hành những điều phát biểu. Quan sát hiện trường thôn quê Việt Nam trước 1975, người ta hiếm khi tìm thấy được những thiếu nữ thôn quê lăng loàn hay những phụ nữ chiếm đoạt chồng người khác. Do đó, thiển nghĩ những phát biểu tự do về sinh lí qua số lượng đáng kể của những câu ca dao, tục ngữ, nhất là về sinh lí ngoại tình, chỉ là chỉ dấu của sự đồng tình trong ý thức phản kháng của phụ nữ dân dã đối với những hành vi áp đặt và võ đoán của nam giới mà thôi. Trong bài tiếp theo, tác giả sẽ khai triển lập trường này sâu hơn.
Nguyễn Văn Thái
North Wales, Pennsylvania
Ngày 15 Tháng 1, Năm 2023
Chú thích
1Nguyễn /văn Thái. “Chung thuỷ, Một Đặc tính về Tình Yêu của Người Đàn bà Việt Nam”, ngày 9 tháng 9 năm 2019. https://tiengnuisong.blogspot.com/
2_______________. “Tính Chuyên nhất trong Tình yêu của Người Đàn bà Dân dã Việt Nam”, ngày 10 tháng 9 năm 2019. https://tiengnuisong.blogspot.com/
3________________. “Xả Thân là Bản tính Chính yếu của người Đàn bà Việt Nam”, ngày 15 tháng 3 năm 2020. https://tiengnuisong.blogspot.com/
4 _________________. “Văn chương Bình dân như là Văn hoá Đối kháng, III”, ngày 5 tháng 7 năm 2020. https://tiengnuisong.blogspot.com/
Nguồn: https://langhue.org/index.php/van-hoc/but-ky,-but-luan,-dich-thuat/22107-tieu-luan-ban-chat-nguoi-dan-ba-dan-da-bai-ii-nguyen-van-thai.html