Phần I. Kỹ thuật nuôi ong mật
Lịch sử của các loài ong
Ong mật là một dạng đặc biệt của ong bắp cày. Ong bắp cày là tên thông dụng của một nhóm các loại tò vò, chủ yếu thuộc chi Vespa và Provespa. Có nhiều loại ong bắp cày có kích thước lên tới 5.5 cm. Loại được biết đến nhiều nhất là Vespa crabo (loại bắp cày Châu Âu) với kích thước khoảng 2-3.5 cm, phân bố chủ yếu ở Châu Âu, Nga, Bắc Mỹ và Bắc Á.
Trong tiếng Việt, ong bắp cày còn có các tên khác như ong vò vẽ, ong bò, ong bò vẽ, ong vẽ, ong bồ vẽ, ong vàng1).
Ong mật là loại ong bắp cày biến đổi từ săn mồi côn trùng sang phấn hoa, có thể là kết quả của việc tiêu thụ các con mồi côn trùng có mặt trong hoa và một phần của con mồi còn dính phấn hoa khi chúng làm thức ăn cho ấu trùng của ong bắp cày.
Ong mật bao gồm những loài ong có bản năng sản xuất mật ong và đời sống có tổ chức. Một tổ ong mật, gồm có một ong chúa (queen), thân dài 20-25 mm, cánh ngắn, kim châm ngắn, ong đực (drone) thân dài 15-17 mm, không có ngòi châm, cánh lớn và ong thợ (worker), thực hiện tất cả công việc của đàn ong, như bảo vệ tổ, tạo sữa chúa để nuôi ấu trùng, hút mật hoa để tạo mật ong2).
Ong mật thuộc giống Apis như Apis mellifera, Apis cerana, Apis ligustisca, Apis sinensis hoặc các giống Maligona, Trigona, v.v.. thuộc họ Apidae.
Theo Natural World News, ong mật có tổ tiên ở châu Á, trái ngược với quan điểm trước đây cho rằng chúng xuất phát từ châu Phi. Với phương pháp phân tích gene để giải mã lịch trình tiến hóa của các loài ong mật, cho thấy loài ong mật cổ xưa là loài ong sống trong các hốc đá, hốc cây, xuất phát từ châu Á khoảng 300,000 năm trước và sau đó lan rộng sang châu Âu và châu Phi như ong Apis mellifera.
Ong là loại côn trùng giúp thụ phấn hàng đầu, ít nhất 1/3 số lượng thực phẩm thế giới là sản phẩm từ cây trồng được thụ phấn bởi các loài ong3). Hoverfly có hình thù giống ong nhưng không thuộc loại ong và wasp, cũng là loại côn trùng thụ phấn quan trọng, chỉ đứng sau các loại ong (hình 1).
Hình 1. Các loại ong.
Murder Hornet xuất hiện ở bang Washington là một loại ong Asian giant lớn nhất trong họ Vespidae của wasps, như vậy tất cả các loại ong trong họ Vespidae là wasps nhưng, hornets cũng là wasps nhưng thuộc chi Vespa, có tên là Vespa mandarinia (hình 1). Asian giant hornets có chiều dài gần 5.5 cm, một tổ chỉ có khoảng 100-400 ong thợ, ong chúa và ong đực. Lợi ích của ong hornets là tiêu trừ những loại côn trùng khác đặc biệt là nhện, và cũng giúp thụ phấn cho vài loại thực vật, nhưng cũng giết hại các loài ong khác để cướp lấy ấu trùng.
Murder hornets có lẽ vì xuất hiện ở một môi trường mới như ở Mỹ, chưa quen thuộc nên trở nên hung dữ và các loại ong mật ở Mỹ cũng khác với các loại ong mật ở Á châu như ở Nhật. Ở Nhật, mỗi khi hornets tấn công ong mật thì các loại ong mật, đặc biệt là loại ong Asian honeybees (Apis cerana), sẽ kết hợp, thành hình như trái banh để bao vây chống lại hoặc làm ngạt thở để giết ong hornets 4).
Apis mellifera, loại ong mật phổ biến nhất ở châu Âu được thế giới công nhận, nhưng thực ra còn có các loại côn trùng khác cũng sản xuất mật ong như Stingless bees (Meliponini), Bumble bees, ong vò vẽ (Mexican honey wasp) và kiến (honeypot ant).
Sự khác nhau của các loài ong
Có khoảng 20,000 loại ong, chúng khác biệt về đặc tính, cách thụ phấn và môi trường sống. Ong mật và ong bumble thường gặp và rất dễ nhầm lẫn với wasps. Ong mật và ong bumble đều thuộc họ Apidae, nhưng ong bumble thuộc chi Bombus, ong mật thuộc chi Apis. Hình dáng và đặc tính được tóm tắt trong bảng 1. Về môi trường sống, ong mật có tổ chức xã hội rất ưu tú, trong một tổ có hàng ngàn con, trong đó, ong chúa có thể tồn tại 2-3 năm, ong đực chỉ sống được khoảng 1-2 tháng và ong thợ, thường sống khoảng 2-6 tháng
Ong bumble làm tổ dưới đất hay ngoài trời, gồm chừng vài ba trăm con. Ong bumble không sản xuất nhiều mật ong như ong mật, chỉ sản xuất vừa đủ để dùng trong tổ của mình, và chỉ có ong chúa bumble có thể tồn tại trong mùa đông.
Về thụ phấn thì ong bumble làm tốt hơn ong mật vì có thân hình lớn hơn, phân biệt được các loại hoa khác nhau để lấy mật và thường thu thập phấn hoa lâu hơn ong mật, cho tới khi thụ phấn xong mới dời đi. Đặc biệt ong bumble còn có thể hoạt động dưới điều kiện thời tiết không tốt như lạnh, mưa và ít nắng5).
Bảng 1. Những đặc điểm khác nhau của ong mật, ong bumble và wasp.
|
Ong mật
|
Ong Bumble
|
Wasps
|
Hình dáng
|
Ít lông, nhỏ và gầy hơn ong bumble.
|
Lớn, tròn và có nhiều lông.
|
Thon dài, ít lông hoặc không có lông.
|
Màu
|
Có viền đen và màu vàng da cam.
|
Có màu đen, trắng, vàng.
|
Có viền màu vàng đậm và đen.
|
Khi bay
|
Chân thường co lên để che giấu.
|
Chân không co, để nguyên khi bay.
|
Chân không co, để nguyên khi bay.
|
Ong đốt
|
Đốt khi bị khiêu khích và chết sau khi đốt.
|
Có thể đốt nhiều lần mà không chết.
|
Có thể đốt nhiều lần mà không chết.
|
Thường sống
|
Sống bầy đàn lớn trong tổ ong, lỗ rỗng trên cây hay mái nhà.
|
Sống từng đàn nhỏ dưới đất, ổ chim bỏ trống.
|
Sống từng đàn nhỏ dưới đất, mái nhà.
|
Thường thấy
|
Thu thập phấn hoa và mật hoa.
|
Thu thập phấn hoa và mật hoa.
|
Nơi có thức ăn hay đồ uống như xung quanh chỗ pinics.
|
Lợi ích của ong
|
Thụ phấn cho hoa quả, ngũ cốc và tạo mật ong.
|
Thụ phấn cho hoa quả, ngũ cốc.
|
Tiêu diệt côn trùng trong vườn, vài loại có thể tạo mật ong.
|
Kỹ thuật nuôi ong mật của vùng Bắc Mỹ
Các loại ong mật ở Bắc Mỹ
Ong mật nuôi ở Mỹ gồm có 3 loại chính là ong Italians, ong Caucasian và ong Carniolans, được cấy từ nhiều loại ong khác nhau đến từ Ý, Caucasian và châu Phi. Hiện nay đã có nhiều loại ong mật lai giống, được nghiên cứu và sản xuất để chống thời tiết lạnh, bệnh tật, sâu bọ như ong Midnite, Starline hay Buckfast.
a) Ong Italian là loại ong mật phổ biến nhất ở Mỹ, sinh trưởng từ đầu mùa xuân tới cuối mùa thu, là một quần thể lớn. Với số ong lớn có thể thu hoạch nhanh một lượng lớn mật hoa và phấn hoa để tạo mật ong, nhưng cũng tiêu thụ nhiều mật ong trong mùa thu và mùa đông so với các loại ong khác. Ong Italian có kháng thể chống được bệnh Eurofoolbrood hơn ong Causasian và Carniolan, nhưng dễ bỏ tổ hoặc đi chiếm mật ong của những tổ ong khác, dễ gây lây lan các loại bệnh tật cho các tổ ong khác.
b) Ong Caucasian được xem là loại ong dễ nuôi nhất trong các loại ong mật, có màu từ nâu sậm tới đen, bụng có các vành màu hơi xám. Ong này cũng có khuynh hướng dễ bỏ tổ để qua những tổ ong khác như ong Italian, và không họp thành đàn quá sức. Ong Caucasian không phổ biến nhưng có thể mua từ những nhà cung cấp ong.
c) Ong Carniolan, có màu nâu và hình dạng giống như ong Caucasian, chỉ khác có những chấm màu nâu hoặc có vành ở bụng. Ong Carniolan họp thành từng đàn nhỏ trong mùa đông nhưng phát triển nhanh trong mùa xuân, khi bắt đầu có phấn hoa. Loại ong này dần trở nên phổ biến với các loại ong Carniolan mới có tên là “New World Carniolan Bees” (hình 2).
Hình 2. Ong Italian, Caucasian và Carniolan (từ trái sang phải).
Người nuôi ong có thể mua ong từ nhà cung cấp ong, gồm tổ ong package, tổ ong nucleus (nucs) hay tổ ong established hay bắt về nuôi các loại ong mật làm tổ ngoài trời, trên cây, tường nhà...
Người nuôi ong chưa có kinh nghiệm, nên tránh nuôi các loại ong mật đánh bắt ngoài trời, nên dùng tổ ong package, nucleus hay established. Mua loại ong nucleus và established phải cẩn thận vì ong có thể có bệnh hoặc kích thước của tổ ong không theo tiêu chuẩn.
a) Tổ ong package: Mục đích để tăng cường những tổ ong bị suy yếu hay tạo một tổ ong mới. Tổ ong package gồm có 3 loại, loại 2 lbs (0.9 kg), 3 lbs (1.4 kgs) và 5 lbs (2.3 kgs), nhưng phổ biến nhất là loại 2 lbs và 3 lbs, mỗi lb chứa khoảng 3,500 con ong, và hoặc có thêm ong chúa. Tổ ong package có ong chúa thường cho mục đích tạo một tổ ong mới.
Thời gian thích hợp để đặt tổ ong package vào thùng ong, nếu đã có sẵn các khung sáp ong đã được ong xây dựng (drawcombs), thì nên thực hiện sớm vào đầu tháng 4, nếu chưa được ong xây dựng (comb foudation) thì phải đặt tổ ong package này vào cuối tháng 4 hay đầu tháng 5, và tốt nhất là vào buổi chiều khi ong không còn bay ra ngoài để tìm kiếm thức ăn. Chú ý là luôn phải chuẩn bị thức ăn cho tổ ong package từ khi nhận được từ nhà cung cấp cho tới khi chúng có thể tự đi tìm kiếm mật hoa và phấn hoa, đặc biệt với những thùng ong chỉ có khung sáp ong chưa được ong kiến tạo (comb foundation). Với loại ong cung cấp từ tổ ong package, 35% số lượng ong sẽ bị giảm trong vòng 21 ngày sau khi đặt tổ ong này vào thùng ong, vì trong thời gian này, ong thợ ấu trùng cần 21 ngày để phát triển và ong thợ già bị chết. Sau 4 tuần, lớp ong trẻ này sẽ phát triển và vượt quá số ong già bị chết, tạo lại mật độ số ong như trước. Để tránh mật độ của ong bị giảm quá nhanh, khi đặt tổ ong package vào thùng ong thì nên giữ lại trong thùng ong sẵn một, hai khung sáp ong có chứa sẵn trứng, ấu trùng và nhộng và đã được ong thợ dùng sáp che lại (capped brood).
b) Tổ ong nucleus (nucs): Giống như một tổ ong nhỏ, có đủ các loại ong như ong thợ, ong cái và ong chúa, và thức ăn cho ong. Vào đầu mùa xuân, khi có nhiều mật hoa, tổ ong sẽ phát triển nhanh, và vì không có trở ngại cho chu kỳ sinh sản của ong chúa và hoạt động của ong thợ, tổ ong này cũng tạo ra nhiều mật ong trong năm đầu.
Điều bất lợi khi dùng tổ ong nucs, là giá cả cao hơn loại tổ ong package và có khả năng bị truyền nhiễm bệnh và sâu bọ vì nhà cung cấp không bị bắt buột phải có giấy chứng nhận kiểm tra của chính phủ, thành thử khi mua phải chọn nhà cung cấp được tín nhiệm.
c) Tổ ong established: Loại sản phẩm này chỉ thích hợp cho người nuôi ong có kinh nghiệm, muốn tăng thêm số tổ ong. Người ít có kinh nghiệm, tốt hơn là nên dùng thử những đơn vị nhỏ của tổ ong package hay nucs, trước khi dùng tổ ong established.
Thiết bị nuôi ong
Những thiết bị dùng để nuôi ong gồm thùng ong, thiết bị phụ tùng và áo quần bảo vệ bị ong chích.
a) Thùng ong gồm một bảng lót dưới thùng ong và một bệ đỡ: Thùng ong tiêu chuẩn là loại thùng có 10 khung ong, có cùng một chiều ngang và chiều dọc nhưng có 4 loại chiều cao khác nhau. Thùng ong có chiều cao dài nhất là loại 95/8 inches (24.5 cm), gọi là deep super, thường dùng để ấp trứng, nuôi ấu trùng và nhộng, cũng có thể dùng để ong tạo mật và tồn trữ. Loại thùng ong này khi chứa đầy mật, trọng lượng sẽ lên đến hơn 60 lbs (27.2kgs), rất nặng và khó vận chuyển, do vậy loại trung bình 75/8 inches (19.4 cm) được ưa chuộng hơn và có thể tự làm lấy. Loại nhẹ nhất có chiều cao 51/16 inches (13.1 cm), có trọng lượng khoảng 35 lbs (15.9 kgs) khi thùng ong chứa đầy mật ong như loại thùng honey supper, loại thùng bề ngang và bề dọc giống như của deep supper nhưng thấp hơn.
Thùng ong được đặt trên một tấm bảng (bottom board) có để một kẽ hở ở phía trước, rộng 7/8 - 3/8 inches (0.4-0.9 cm), để ong có thể ra vào, và dưới tấm bảng này còn có thêm một bệ đỡ (stand), mục đích để giảm độ ẩm trong thùng ong, cũng như tránh các loại cỏ dại có thể gây khó khăn cho việc di chuyển của ong (hình 3).
b) Queen excluder: Mảng lưới này mục đích là giữ ong chúa, ong thợ và tồn trữ nhụy hoa trong deep super, tránh di chuyển lên phía trên nơi thùng honey supers tồn trữ mật ong. Nhiều nhà nuôi ong xem queen extruder như là vật cản “honey extruder”, khi mật hoa chưa chứa đầy trong thùng deep super, ong sẽ không muốn di chuyển lên trên vì phải đi qua vật cản “honey extruder” này. Cũng vì lý do này, người nuôi ong thường cho ong chứa đầy mật hoa trong thùng honey super trước, trước khi đặt queen extruder vào giữa thùng deep super và thùng honey supper.
Hình 3. Thùng nuôi ong
c) Bảng che phía trên thùng honey super: Gồm có 2 bảng, một che ở phía trên honey super (inner cover) và một che ở phía trên cùng (outer cover). Bảng che inner cover thường đặt ngay phía trên thùng ong honey super, có lỗ thông hơi, và nằm ngay phía dưới của tấm che ngoài cùng outer cover. Tấm che phía dưới giúp ngăn ngừa bảng che phía trên dính với thùng ong do chất nhựa và sáp ong gây ra, và có lỗ thông hơi để ong có thể di chuyển ra vào thùng ong honey supper để chứa mật ong, và cũng để thùng ong cách nhiệt với bên ngoài trong mùa hè hay không khí ẩm ướt trong mùa đông.
Hình 4. Thiết bị nuôi ong (đồ nạy và máy phun khói)
Bộ quần áo bảo hộ tránh bị ong chích gồm mạng che mặt và cổ, và áo quần che từ cổ tới chân. Loại mạng che mặt cũng có vài loại nhưng loại bảo hộ phổ thông nhất là loại có mũ, nhẹ, rộng vành, làm bằng vải hay sợi. Loại quần áo che từ cổ tới chân, kết hợp với mạng che mặt vừa tránh bị ong chích vừa tránh để quần áo bị dính keo của ong (proposis). Áo quần có màu trắng hay màu rám nắng thích hợp nhất, nhưng các loại màu khác cũng chấp nhận được trừ có màu tối và làm từ vật liệu mờ hay từ lông của động vật. Cổ chân và cổ tay cũng phải chú ý vì cổ chân là nơi dễ bị ong chích nhất vì gần chỗ ra vào của ong. Ngoài ra cũng phải tránh dùng nước hoa cạo râu, colognes, khi tiếp xúc với ong vì mùi của nước hoa sẽ thu hút sự tò mò của ong khiến ong tụ lại.
Cách quản lý tổ ong
Tháng 1: Đặt vài khung sáp ong có chứa mật ong, sugar candy hay đường khô trong thùng ong nếu ong cần thêm thức ăn. Trong thời gian này, cũng cần tu sửa dụng cụ nuôi ong và mua thêm ong packages, nucs, ong chúa, nếu chưa mua từ tháng 12 vừa qua.
Tháng 2: Kiểm tra lượng mật trong tổ ong, tiếp tục cung cấp thức ăn cho ong và dọn dẹp các tổ ong chết.
Tháng 3: Nếu cần thiết, tiếp tục cung cấp thức ăn, kiểm tra thùng ong chứa ấu trùng và trứng. Dọn dẹp các tổ ong chết và chuẩn bị các thùng ong chứa mật ong (honey supper).
Tháng 4: Kiểm tra ong chúa, các loại bệnh tật và sâu bọ trong tổ ong. Đây cũng là thời gian đặt tổ ong packages vào thùng ong có chứa các khung sáp đã được ong kiến tạo và thay ong chúa nếu ong chúa hết khả năng sinh đẻ. Thêm thùng ong để chứa mật khi mùa hoa bắt đầu nở, và điều chỉnh các tổ ong bị suy yếu với các tổ ong khỏe mạnh.
Tháng 5: Theo dõi các ổ chứa ong chúa trong tổ ong, quản lý ong tụ tập tại một chỗ, đặt thêm thùng ong chứa mật, và đặt tấm ngăn queen excluder giữa thùng ong có ong chúa và thùng ong chứa mật honey supper. Đây cũng là lúc đặt ong packages vào thùng ong có chứa khung ong chưa được ong kiến tạo và chia tổ ong khỏe mạnh ra các tổ ong khác.
Tháng 6: Tiếp tục kiểm tra ong chúa, bệnh tật và các loại sâu bọ trong thùng ong. Đồng thời thay thế những thùng ong đã chứa đầy mật và quản lý ong tụ thành đàn.
Tháng 7: Tiếp tục di dời các thùng ong chứa đầy mật, kiểm tra ong chúa, thêm thùng ong chứa mật, đặt phía dưới những thùng ong chứa mật khác. Những khung chứa đầy mật, nếu lấy ra sớm từ những thùng ong, cần giữ đông lạnh để đề phòng hư hại từ các loại sâu bọ như sâu ăn sáp ong wax moth.
Tháng 8: Kiểm tra và theo dõi cũng như xử lý các tổ ong bị bệnh hay có sâu bọ. Bắt đầu chế biến mật ong (mật ong mùa hè), thêm thùng ong chứa mật nếu cần.
Tháng 9: Tiếp tục kiểm tra, theo dõi và chuẩn bị đặt thêm thùng ong chứa mật. Lúc này có thể thay ong chúa nếu cần và hợp nhất lại những tổ ong yếu.
Tháng 10: Chuẩn bị tổ ong cho mùa đông, bắt đầu cung cấp heavy syrup từ mùa thu nếu cần, chế biến mật ong (mật ong mùa thu), và bổ sung những tổ ong yếu với tổ ong mạnh khỏe, đồng thời đặt tấm che ở chỗ ong vào ra để ngăn ngừa sâu bọ.
Tháng 11: Lúc này không còn lấy mật nữa, là lúc mua thêm dụng cụ mới chuẩn bị cho mùa ong tới và cung cấp thức ăn cho tổ ong vào dịp cuối thu.
Tháng 12: Sửa chữa và làm thêm dụng cụ cho thùng ong, mua thêm ong nếu cần.
Các loại bịnh của ong và cách xử trí
Các loại bịnh của ong và cách xử trí
Để phòng ngừa ong bị bệnh tật, sâu bọ phá hoại v.v., cần khả năng chuẩn đoán và xác nhận nhanh các triệu chứng.
1. Các loại bệnh tật gây ra bởi vi khuẩn:
a) American Foulbrood (AFB, bacterial desease): Loại bịnh truyền nhiễm phổ biến nhất của ong ở Mỹ, gây ra bởi Paenibacillus larvae (spore-forming bacterium), chỉ ảnh hưởng ấu trùng dưới 53 giờ sinh nở. Ấu trùng chết sau 2 ngày khi nhiễm AFB, biến đổi từ màu trắng sang màu nâu và màu cà phê đậm, và sau 3 tuần thì thi thể sẽ tạo ra chất nhờn và lưỡi của ấu trùng thò ra ngoài, đó là dấu hiệu bệnh tính của loại ong bị nhiễm AFB (hình 5). AFB có thể lây qua các tổ ong gần kề và các ấu trùng qua thức ăn của ấu trùng bị nhiễm AFB, và cuối cùng cả tổ ong đều bị nhiễm. AFB không truyền nhiễm qua người hay qua người dùng mật ong, tuy nhiên những bào tử (spores) của AFB có thể tồn tại nhiều năm trong mật ong hay bánh mật (honeycomb).
Hình 5. Ấu trùng nhiễm bịnh American Foulbrood.
b) European Foulbrood (EFB, bacterial disease): Loại bịnh thường xảy ra trong mùa xuân hay đầu mùa hè, gây ra bởi Mellissococcus pluton và biến mất sau đó. EFB thường không giết ong, nhưng nếu ong bị nhiễm nặng EFB, sẽ làm giảm đáng kể số ong sinh sản. Ong ấu trùng bị nhiễm EFB chết khi được 2-4 ngày tuổi. Khác với ong ấu trùng bị nhiễm AFB, ấu trùng nhiễm EFB, hầu hết chết trước khi ô sáp (cells) trên khung ong được đóng. Màu sắc của ấu trùng khi chết sẽ từ trắng, đổi sang vàng, nâu và cuối cùng xám đen, và không tạo ra chất nhờn từ tử thể (hình 6).
Hình 6. Ấu trùng nhiễm bịnh Europian foulbrood.
c) Sacbrood (viral disease): Loại bịnh này gây ra bởi virus, không gây ra những tổn thất lớn, chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ và thường xảy ra giữa thời kỳ đầu của ấu trùng. Tử thi của ấu trùng hóa thành dung dịch và phình ra như cái bao đựng nước, loại bịnh này thường biến mất vào cuối mùa xuân khi mật hoa bắt đầu xuất hiện. Các tổ ong khỏe mạnh và thường xuyên thay đổi ong chúa sẽ ngăn ngừa được loại bịnh này (hình 7).
Hình 7. Ấu trùng nhiễm bịnh Sacbrood.
d) Chalkbrood (fugal disease): Loại bịnh này gây ra bởi loại nấm Ascophaera apis, các loại ấu trùng của ong thợ, ong đực và ong chúa đều có thể bị nhiễm. Ấu trùng bị bệnh này thường xảy ra vào cuối mùa xuân, tổ ong tuy bị nhiễm nhưng không bị hủy diệt, chỉ gây cản trở việc sinh sản và giãm lượng sản xuất mật ong. Loại bệnh này sẽ biến mất khi thời tiết trở lại ấm áp như trong mùa hè. Triệu chứng của loại bệnh này là xuất hiện nhiều sợi và nhiều điểm màu nâu hay đen ở dưới bụng của tử thi của ấu trùng. Tử thi của ấu trùng thường tìm thấy phía trước thùng ong, trên bảng lót dưới thùng ong hay trên khay đựng phấn hoa. Độc tố của bào tử của loại nấm này tồn tại nhiều năm trên dụng cụ nuôi ong, hiện tại chưa có phương pháp hữu hiệu để quản lý loại bịnh này trên ong (hình 8).
Hình 8. Ấu trùng nhiễm bịnh Chalkbrood
e) Stoneboard (fugal disease): loại bệnh này gây ra từ các loại nấm thuộc họ Aspergillus. Hai loại nấm phổ biến nhất là A. flavus và A. fumigates, A. flavus gây ảnh hưởng nhiều nhất đối với ấu trùng và nhộng. Tử thi của ấu trùng hay nhộng nhiễm A. flavus thường phủ một lớp phấn màu xanh do các bào tử của A. flavus sinh sản. Loại bệnh này ít khi gặp và ít ảnh hưởng đến tổ ong nên không cần xử lý (hình 9).
Hình 9. Ấu trùng nhiễm bịnh Stoneboard.
f) Nosema disease (Protozoan disease): Bịnh Nosema gây ra bởi những bào tử của Nosema apis, xâm nhập vào đường tiêu hóa của ong thợ, ong đực và ong chúa. Ong bị bịnh này thường xảy ra trong mùa đông, vì ong không bay ra ngoài được để bài tiết, và tụ lại thành đàn để giữ ấm cho nhau, nên dễ gây nhiễm cho toàn tổ ong (hình 10). Bệnh này rất phổ biến nhưng khó phán đoán, phải dùng kính hiển vy để quan sát các bào tử của loại fungus này có tồn tại hay không.
Cách quản lý là dùng chất hóa học fumidil-B (Fumagillin), tuy nhiên fumagillin không hiệu qủa đối với bào tử của nosema parasite, nên không hoàn toàn loại trừ được loại bịnh này, chỉ áp chế bịnh nosema phát triển
Hình 10. Ong bị nhiễm bịnh Nosema.
2. Ký sinh trùng (Parasitic):
a) Varroa mites (Varroasis): Hội chứng ký sinh trùng này gây ra bởi sự chồng chéo giữa virus của bịnh foulbrood và sacbrood. Varroa mite được xem là loại bệnh nguy hiểm nhất của ong, xảy ra ở mọi nơi nuôi ong. Ký sinh trùng varroa mites sống bên ngoài ấu trùng, nhộng hay ong trưởng thành, với số lượng lớn có thể làm suy yếu hay giết chết tổ ong. Triệu chứng nhiễm varroa mites, rất khó phát hiện khi bị nhiễm nhẹ, nhưng nhiễm nhiều sẽ gây khó khăn cho ong thợ và ong đực khi bay vì cánh bị biến dạng. Cuối mùa nuôi ấu trùng là lúc mites sinh trưởng nhiều nhất (hình 11).
Hình 11. Varroa mite.
b) Tracheal mite (Acarapis woodi): Loại ký sinh trùng này sống trong khí quản hay trong ống hô hấp nằm bên trong lồng ngực của ong trưởng thành. Tracheal mites cũng tìm thấy trong túi khí trong ngực, trong bụng và đầu của ong. Loại mites này sống nhờ hút máu của ong từ ống thở (hình 12).
Hình 12. Honey bee tracheal mite
3. Bệnh tê liệt (Paralysis) và kiết lỵ (Dysentry):
a) Bệnh tê liệt: Bệnh này liên quan tới 2 loại virus, loại tê liệt mãn tính, chronic bee paralysis virus (CBPV), và loại tê liệt cấp tính, acute bee paralysis virus (ABPV), liên quan tới mật hoa, phấn hoa của vài loại thực vật như rhododendron, laurel, buttercup, hay phấn hoa bị lên men trong thời kỳ nuôi dưỡng ấu trùng.
Khi bị tê liệt nặng, một số lượng lớn ong có thể thấy rơi rớt ở chỗ ra vào của thùng ong hoặc trên mặt đất gần thùng ong. Loại bệnh này xảy ra đối với ong trưởng thành, và có thể hồi phục trong một thời gian ngắn.
Số ong bị tê liệt nhiều có thể xử lý với hóa chất fumagillin (Fumidil-B), giúp ong sinh tồn qua mùa đông (hình 13).
Hình 13. Ong bị bịnh tê liệt (CBPV và ABPV).
b) Bệnh kiết lỵ: Là tình trạng khi ong có quá nhiều nước trong cơ thể do ăn những thức ăn có nhiều nước hay bị ức chế trong thùng ong quá lâu trong mùa đông và đầu mùa xuân. Ong bị nhiễm bệnh Nosema hay tổ ong ẩm ướt cũng ảnh hưởng tới tình trạng này. Triệu chứng ong bài tiết trên bánh mật trên khung ong, bên ngoài cửa ra vào của thùng ong hay trên đất gần tổ ong. Để ngăn ngừa ong bị bệnh kiết lỵ, thùng ong phải được giữ ở chỗ thoáng khí và cung cấp thức ăn cho ong có phẩm chất tốt (hình 14).
Hình 14. Ong trong tình trạng bị kiết lỵ.
4. Côn trùng:
Small hive beetle (Aethina tumida): Lần đầu phát hiện ở Florida vào đầu xuân năm 1998, loại côn trùng giống như con bọ hung, có nguồn gốc từ Africa. Loại trưởng thành có độ lớn chừng 1/3 của ong, màu đen hay nâu và che phủ bởi các sợi lông nhỏ (hình 15).
Hình 15. Small hive beetle (SHB).
a) Kiến: Không phải là loại côn trùng gây tác hại nhiều cho tổ ong, tuy vậy kiến có thể tìm vào tổ ong để kiếm thức ăn hay làm tổ. Kiến thường tìm thấy ở giữa 2 tấm che phía trên hết của thùng ong (inner và outer cover) và khay đựng phấn hoa. Mặc dầu kiến ít gây phiền phức cho ong, nhưng cũng gây ít nhiều khó chịu đối với ong.
Hình 16. Kiến trong thùng ong
b) The greater wax moth (Galleria mellonella) và the Lesser wax moth
(Achroia grisella): Là 2 loại bướm ăn sáp ong nên gây nhiều tai hại cho ong. Wax moth có thể xuất hiện nếu mảng ong trên khung tồn trữ ở những nơi tối tăm, ấm áp và không thoáng khí. Greater wax moth có chiều dài 13-19 mm, xuất hiện mọi nơi trên thế giới, lesser wax moth, có chiều dài 10-13 mm, cùng màu với greater wax moth, đầu màu vàng và thân hình màu xám tro (hình 17).
Hình 17. Greater wax moth (trái) và Lesser wax moth (phải).
Kỹ thuật nuôi ong của Việt Nam
Cũng như kỹ thuật nuôi ong mật của Bắc Mỹ, cách nuôi ong của Việt Nam cũng được nhấn mạnh đến kỹ thuật nuôi, cách chăm sóc và quản lý. Ở Việt Nam, để tăng ong, thì cứ khoảng 2 năm tiến hành thay ong chúa đã già một lần, thường xuyên làm vệ sinh thùng ong và thùng ong được chọn loại gỗ không mùi như sung, gạo, sau sau... và mùa đông phải che đậy cẩn thận, tránh để ong bị lạnh hoặc thùng ong bị thấm nước. Mỗi thùng ong chỉ để khoảng 3-4 tấm khung sáp ong (cầu ong), đến mùa xuân, khi lượng mật hoa nhiều hơn thì có thể đặt thêm 6-7 tấm 6).
Theo văn phòng thống kê tổng hợp, trong năm 2017, Việt Nam có 1.2 triệu đàn ong mật, gồm loại ong của Ý và địa phương. Việt Nam đứng thứ 6 thế giới và thứ 2 ở châu Á về xuất khẩu mật ong. Mỗi năm, Việt Nam sản xuất hơn 55,000 tấn mật ong và hơn 1,000 tấn sáp ong, 85-90% những sản phẩm này được xuất khẩu sang Mỹ, Âu châu và Nhật bản 7).
Gần đây, theo số liệu thống kê của Ủy ban thương mại quốc tế (ITC), sản lượng mật ong của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ năm 2021 đạt 56,133 tấn với kim ngạch khoảng 82.1 triệu Mỹ kim.
Tham khảo
1. Vi.m.wikipedia.org/wiki/Ong_bắp_cày
2. Vi.m.wikipedia.org/wiki/Ong_mật
4. Science.thewire.in/environment/understand-the -alarm-around-asian-giant-hornets-in-the-us/
5. Beeloved-co-uk/buzzfeed-1/2016/6/21
6. Baotintuc.vn/nguoi-tot-viec-tot/nuoi-ong-khong-kho-2015-1228-223705.152.html
7. BeeCulture: The Magazine of American Beekeeping. Sept. 04, 2018