Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive
 
gach gom bat trang 2 1654596405
 
"Trên trời có đám mây xanh/ Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng/ Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang/ Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân
Có rửa thì rửa chân tay/ Đừng rửa lông mày chết cá ao anh"
 
Đó là một trong những vần ca dao Việt Nam quen thuộc, khá nhiều người biết - Và hơn như thế, câu ca tưởng chỉ là dân gian truyền miệng nhưng đã đi vào văn học, mà từ giới trí thức, đến giới bình dân hầu như đều thuộc nằm lòng
 
Câu ca truyền miệng bay xa
Đi vào văn học ngọc ngà thế gian
Vần thơ lục bát nhẹ nhàng
Ngâm nga hậu thế dân gian thuộc lòng.
 
Sở dĩ câu ca dao được nhiều người thuộc, trước hết vì nó dễ thuộc, với lời ca bật ra như nói, âm điệu giản dị, ‎ý thơ nhẹ nhàng qua thể điệu lục bát, như hầu hết các ca dao Việt Nam đều viết theo thể lục bát 6 chữ 8 chữ
 
Thơ lục bát dễ đi vào lòng người, nhất là lòng người dân Việt, một dân tộc sống nặng tình cảm, ưa vun đắp và gắn bó với tình tự quê hương, bản quán, xóm giềng.
 
Ngay cả khi sang hải ngoại, tình làng nghĩa xóm vẫn được duy trì, vẫn nối tiếp từ mối kết giao cũ từ ở quê nhà, - Đấy chính là tình tự quê hương, đấy là văn hóa dân tộc
 
Dân tộc Việt Nam vốn nặng lòng
Đa mang tình tự thỏa chờ mong
Quê hương bản quán là căn bản
Dù có đi xa vẫn vọng trông.
 
Thêm nữa, ca dao lại có ‎ý tứ, ‎ý nhị, đầy đặn và đôn hậu... Điều đó cho thấy tình cảm ngày xưa chân chất, và người của hôm xưa khéo léo trữ tình, và thể hiện cả trong tâm tư, lẫn văn chương thơ phú đương thời...
 
Tuy bài lục bát này rất nhiều người thuộc, nhưng có lẽ chẳng mấy ai có thì giờ tìm hiểu gạch Bát Tràng được xuất hiện trong câu ca một cách trân trọng ấy, là loại gạch như thế nào và xuất xứ từ đâu?
 
Cái hồ bán nguyệt anh xây
Chỉ rửa chân thôi, đừng rửa lông mày
Dung nhan soi nước làm cá chết/
Anh chàng tán tỉnh thiệt là hay
Xưa nay nam tử thường như vậy
Lời ngọt nghe mềm... một đoản khúc say.
 
- Trước hết gạch là gì? - Gạch là một sản phẩm thuộc ngành gốm, được nung từ đất sét mà ra. Còn Gốm sứ Bát Tràng là cái tên gọi chung cho các loại đồ gốm sứ được sản xuất tại ngôi làng có tên là Bát Tràng.
 
- Vậy làng Bát Tràng ở đâu? - Làng Bát Tràng thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.
 
Bát Tràng là tên của một làng
Nằm ngay ở huyện Bát Tràng Gia Lâm
Những ngày giãi nắng mưa dầm
Gia Lâm phố huyện, gió lâm râm đùa
Hà Nội phất phới xa đưa
Ngàn năm văn vật đong đưa thổi về
 
- Theo Đại Việt Sử K‎ý‎‎ Toàn Thư và Địa Dư Chí của Nguyễn Trãi, thì làng gốm Bát Tràng được hình thành từ thời nhà L‎ý. Khi vua L‎ý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long
 
- Người dân thôn Bát Tràng có 5 dòng họ làm nghề gốm nổi tiếng của làng Bồ Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, nay thuộc tỉnh Ninh Bình... Năm dòng họ đó là: họ Trần, họ Vương, họ Lê, họ Phạm, kết hợp với họ Nguyễn... đã đồng lòng đưa các người chuyên môn mỹ thuật về làm gốm cùng gia đình của họ, quyết định di cư đến Bạch Thổ, phường Gia Lâm lập nghiệp, mở lò sản xuất đồ gốm, lập nên làng Gốm Bát Tràng - nơi có nguồn nguyên liệu tốt là đất sét trắng để làm gốm sứ
 
Lập thân dựng nghiệp ở Bát Tràng
Với năm dòng họ thật xênh xang
Khởi bao công khó từ thời L‎ý
Nghệ sĩ lừng danh thật huy hoàng.
 
- Và khi những ngừơi dân Bạch Bát đến vùng đất bồi ở trên bờ sông Hồng này, họ đã lập thành phường, chủ yếu chuyên về đồ gốm, về buôn bán, và làm quan. - Ngày nay là hai thôn thuộc về xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
 
- Vào thời hậu Lê, xã Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, trấn Kinh Bắc. - Sang thời nhà Nguyễn 822, trấn Kinh Bắc đổi thành trấn Bắc Ninh và năm 1831 thì trở thành tỉnh Bắc Ninh, lúc này trực thuộc tổng Đông Dư, huyện Gia Lâm, Thuận An. - Năm 1862 nơi đây thuộc về phủ Thuận Thành và năm 1912 thì hai thôn được chia sang thuộc phủ Từ Sơn
 
=Người xưa cứ thích phân chia
Vài năm lại đổi nọ kia mệt nhoài
Gió mây gác đỉnh non đoài
Chia đi chia lại đổi ngoài đổi trong.
 
Theo k‎ý ức và tục lệ dân gian, trong số các dòng họ ở Bát Tràng, có dòng họ tên là Nguyễn Ninh Tràng, thuộc trường Vĩnh Ninh, một lò gốm ở Ninh Bình, nhưng tuy vậy, nguồn tin này chưa có tư liệu nào xác nhận.
 
Tư liệu ngày xưa chưa rõ ràng
Dựa vào trí nhớ thật mênh mang
Làng thôn xã ấp luôn thay đổi
K‎‎ý ức thời xưa thành hoang mang.
 
** Người ta phân tích hai chữ Bát Tràng theo nghĩa Hán Việt như sau:
 
1/ Bát: có nghĩa là cái bát ăn của nhà sư, theo tiếng Phạn là Patra.
 
2/Tràng còn đọc là trường: mang nghĩa là "cái sân lớn", là mảnh đất dành riêng cho sự việc chuyên môn. Như trong câu: "Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt"/ - Còn đọc là: "trống trường thành lung lay bóng nguyệt/ Khói cam tuyền mờ mịt thúc mây/ Chín tầng gươm báu trao tay/ Nửa đêm truyền hịch đợi ngày xuất chinh (Chinh phụ ngâm)...
 
Tên của làng dịch từ chữ Hán
Chữ Hán thường ghép bộ nọ chữ kia
Các cụ nho gia thâm thúy đầm đìa
Ươc mong con cháu như tia nắng vàng.
 
Các cụ già trong làng ngồi ôn và kể lại, nào là trong chữ Bát có bộ Kim là vàng bạc, giàu có, có chữ Bản là chỉ cội nguồn, nên dùng để khuyên con cháu, khi có căn bản có nghề nghiệp thì đừng quên nguồn cội. Và hiện nay tại các đình, đền, chùa ở Bát Tràng đều vẫn có chữ Bát Tràng viết bằng Hán tự ở phía trước.
 
Mong cho con cháu nên người
Đừng quên nguồn cội xa rời làng thôn
Quê hương tích tụ trong hồn
Đó là căn bản sớm hôm vọng về
 
Ngày nay sang hải ngoại, có bằng cấp cao, có sự nghiệp vững chãi, có jobs tốt, có bơ sữa dư thừa, có đời sống tiện nghi... còn đươc bao nhiêu người tưởng nhớ hướng về quê hương nguồn cội, như lời các cụ đã khuyên răn nhắc nhở và kể lể về sự sử dụng chữ Bát là trong đó được ghép từ chữ Kim là vàng, và chữ Bản là nguồn cội mà cấu thành đây nhỉ?
 
Cụ ơi mộng ước thế thôi
Tùy duyên tùy nghiệp mộng đời phôi pha
Sống đâu thì cũng là nhà
Tuy bôn ba hải ngoại vẫn nhớ nhà Việt Nam
 
- Vào thời Hậu Lê, cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15, là thời kỳ hai thôn của xã Yên Thành, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình là vùng có loại đất sét trắng thích hợp cho việc làm gốm.
 
Theo truyền thuyết và gia phả của họ Vũ, thì dân làng Bồ Bát chuyên làm đồ sứ từ lâu đời. Điều này được xác nhận qua dấu tích của những lớp đất nung và những mảnh gốm ken sát và dày đặc mà người ta tìm thấy ở vùng này. - Đồ gốm Việt Nam được bán sang Nhật, sang nhiều nước ở Đông Nam Á, và các nước phương Tây
 
Tài nguyên là của trời cho
Xuất cảng thâu lợi là no ấm rồi
Bây giờ đất nước tả tơi
Quan chức bỏ túi, mặc đời riêng tư
 
Cuối thế kỷ 17, đầu 18, việc xuất cảng và buôn bán bị giảm sút nhanh chóng, đất nước Đài Loan được giải phóng, và triều nhà Thanh bãi bỏ chính sách cấm vượt biển để buôn bán với nước ngoài. Từ đó gốm sứ loại có phẩm lượng tốt của Trung Quốc tràn xuống thị trường Đông Nam Á, và đồ gốm Việt Nam không đủ sức cạnh tranh. - Còn Nhật Bản, sau một thời gian đóng cửa để bảo vệ các nguyên liệu quí như bạc, đồng... đã đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế trong nước như: tơ lụa, đường, gốm sứ... mà trước đây phải mua của nước ngoài...
 
Tình hình chính sự ngổn ngang
Trung quốc Nhật Bản lan tràn hư không
Gốm sứ, vàng bạc và đồng
Phát triển kinh tế theo dòng thời gian.
 
Một số nước phương Tây đi vào cuộc cách mạng công nghiệp với những hàng hóa mới cần thị trường tiêu thụ rộng lớn. Tình hình kinh tế đó cùng với sự hạn chế ngoại thương của chính quyền thời Trịnh, Nguyễn trong thế kỷ 18 và của riêng nhà Nguyễn trong thế kỷ 19 đã khiến quan hệ mậu dịch đối ngoại của Việt Nam nói chung bị sa sút và sản xuất đồ gốm nói riêng bị suy giảm.
 
Hàng hóa cần có thị trường
Triều đình hạn chế hóa ngoại thương
Tình hình đối ngoại thành giảm suy
Triều Trịnh triều Nguyễn đường đi không còn
 
Đó là l‎ý do khiến một số làng nghề gốm sản xuất bị gián đoạn.
 
Như làng gốm Chu Đậu ở Mỹ Xá. Gốm Bát Tràng cũng bị ảnh hưởng, tuy nhiên vẫn giữ được sức sống là nhờ thị trường tiêu thụ rộng rãi trong nước, với những đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí cần thiết cho mọi tầng lớp xã hội từ quí tộc, đến thường dân, nhất là gạch là một nhu cầu của đời sống
 
Thì ra đồ gốm sứ từ xưa/
Đã là gia dụng, âm thừa tâm linh
Bình hoa tượng cá tượng rồng
Lại thêm gạch ngói thỏa lòng ước mơ
 
Và cũng vì làng gốm Bát Tràng, vốn là một trung tâm sản xuất truyền thống nổi tiếng trong nước.
 
Thì ra xưa cũng giống nay
Tạo được thương hiệu biến ngày thành đêm
Nổi danh là thiên hạ chịu liền
Gía cả mắc mấy cũng đêm thành ngày/
Xài hàng hiệu, dở hóa hay
Tiền nào của nấy, trời bày cuộc chơi
Nhân gian kén chọn vẽ vờ/
Phô trương hiển hách một đời hiển vinh.
 
Thời Pháp thuộc, các lò gốm Bát Tràng tuy bị một số xí nghiệp gốm và hàng ngoại cạnh tranh nhưng vẫn duy trì được mức độ hoạt động bình thường. -Sau chiến tranh đông dương (1945-1954), năm 1957, có 10 cá nhân mang tiếng là con địa chủ ở thôn Giang Cao (sau cuộc cải cách ruộng đất 1955), đã góp vốn lập công ty gốm Trường Thịnh, để sản xuất hàng gốm dân dụng phục vụ xã hội
 
- Đây là khởi đầu cho nền tảng xí nghiệp gốm Bát Tràng.
 
Con nhà địa chủ lập công ty
Sản xuất đồ gốm ấy thì tương thân
Giúp cho xã hội nhân quần
Lập nên công trạng cho dân được nhờ
 
- Năm 1958 nhà nước mở công ty hợp doanh, đổi công ty gốm Trường Thịnh thành xí nghiệp sứ Bát Tràng, thuê công nhân thôn Bát Tràng vào làm việc - Với cơ sở vật chất đầy đủ, nhân công của Bát Tràng được thực hiện trên sức cần cù, và tạo nên một thế hệ có tay nghề vững chãi.
 
- Cùng lúc, một số các hợp tác xã như: htx Hợp Thành 1962, htx Hợp Lực 1978, htx Thống Nhất 1982, htx Ánh Hồng 1984, Liên hiệp ngành gốm sứ 1984, rồi các xí nghiệp X51, X54 (1988) nổi lên cung cấp một số hàng mỹ nghệ và đồ xuất khẩu
 
Địa chủ khai mở công ty
Chính quyền hợp tác ấy thì hợp doanh
Hợp doanh khỏi phải cạnh tranh
Lâu dần biến thể tung hoành gió mưa
Sự đời vẫn thế từ xưa
Ăn cướp mà vẫn như chưa hài lòng.
 
- Những nghệ nhân nổi tiếng của Bát Tràng như Đào Văn Can, Nguyễn Văn Khiếu, Lê văn Vấn, Lê Văn Cam... đã góp công đào tạo thêm nhiều thợ gốm trẻ để cung ứng cho các lò gốm mới mở ở các tỉnh. Các cơ sở sản xuất thì cung cấp hàng tiêu dùng trong nước. Và một số hàng mỹ nghệ khác được xuất khẩu.
 
Đồ gốm Việt Nam khá nhẹ nhàng
Các ngành mỹ nghệ được mở mang
Cung cấp tiêu dùng cho cả nước
Xong còn xuất khẩu thật xênh xang
Khéo tay nắn nót đời nghệ sĩ
Trói cả hư không thật nhẹ nhàng
 
- Sau năm 1986, làng Bát Tràng có chuyển biến lớn theo kinh tế thị trường. Các hợp tác xã lần lượt giải thể, hoặc chuyển thành công ty cổ phần. Tuy các công ty lớn được thành lập, nhưng nhiều tổ sản xuất, những đơn vị nhỏ theo hộ gia đình vẫn tồn tại - Xã Bát Tràng nay trở thành trung tâm đồ gốm khá lớn. Các sản phẩm đồ gốm ngày càng phong phú và đa dạng.
 
Bát Tràng nổi tiếng từ lâu
Của người làm gạch nhuốm màu quan san
Thời gian vẫn chảy nhẹ nhàng
Bao đời nghề gốm vẫn mênh mang buồn.
 
- Ngoài các mặt hàng truyền thống, các lò gốm còn đáp ứng những mặt hàng sử dụng hàng ngày như bát chén, ấm nước, bình hoa kiểu mới, các vật liệu xây dựng, các loại sứ cách điện, làm theo đơn đặt hàng nước ngoài.
 
- Mỹ nghệ Bát Tràng được đưa sang nhiều nước châu Á, châu Âu và Bát Tràng cuốn hút nhiều nghệ sĩ sáng tác mẫu mã mới trong công nghệ sản xuất. Họ thành công trong việc khôi phục một số đồ cổ truyền thống với kiểu dáng và nước men đặc sắc thời L‎ý, Trần, Lê, Mạc
 
Vẫn muốn quay về kiểu dáng xưa
Luẩn quẩn loanh quanh phúc âm thừa
Vẩn vơ ôm những chiều dĩ vãng
Tâm hồn dân Việt vốn đong đưa.
 
- Để làm ra đồ gốm, thợ gốm phải qua những phân đoạn chính:
 
-1/ chọn lựa và pha chế đất
 
-2/ tạo dáng vẻ, sáng tác vẽ hoa văn, tráng men.
 
-3/ cuối cùng là nung sản phẩm
 
Kinh nghiệm truyền đời này qua đời khác của dân làng bát Tràng được gói gọn trong câu "nhất xương, nhì da, thứ ba dạc lò" .
 
Người thợ gốm quan niệm một sản phẩm gốm giống như một cơ thể sống, Như một vũ trụ nhỏ trong đó kết hợp hài hòa của Ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
 
- Sự phát triển nghề nghiệp được xem như sự hanh thông của Ngũ hành, mà hanh thông của ngũ hành lại nằm trong qui trình lao động được sáng tạo qua quá trình kỹ thuật chặt chẽ, chuẩn mực, chính xác.
 
Người là tác phẩm của Trời
Gốm là tác phẩm con người tạo ra
Giang tay ôm cả giang hà
Ngũ hành Kim mộc thủy hỏa thổ chan hòa đắm say.
 
Và quá trình chế tạo gốm tuân theo từng bước: chọn đất, pha chế đất, tạo dáng, phơi sấy, trang trí, chế tạo men, tráng men, đốt lò và nung:
 
-1/ Giai đọan chọn đất: nguồn đết sét là quan trọng đầu tiên để hình thành lò gốm - Những trung tâm sản xuất gốm thời cổ, đặt căn bản sản xuất trên sự khai thác nguồn đất tại chỗ. Làng Bát Tràng cũng vậy, và sở dĩ họ chọn khu vực làng Bát Tràng, vì nơi đây được dân phát hiện có mỏ đất sét trắng.
 
Qua thế kỷ 18, nguồn đất sét trắng cạn kiệt, người dân đi tìm nguồn đất mới. Họ vẫn sinh sống tại những vị trí giao thông thuận lợi thông qua dòng sông bến cảng, và dùng thuyền tỏa ra các nơi tìm nguồn đất.
 
Cạn nguồn đất để làm đồ gốm
Dân Bát Tràng tìm đất phương xa
Dân cư vẫn sống tại nhà
Đi tìm đất sét nơi xa về làm.
 
Từ Bát Tràng ngược sông Hồng lên vùng Sơn Tây, Phúc Yên, rẽ qua sông Đuống, xuôi dòng Kinh Thầy đến Đông Triều, khai thác nguồn đất sét ở Hồ Lao, Trúc Thôn
 
Người ta bảo đất sét Trúc Thôn có độ dẻo cao, khó tan trong nước, hạt mịn, màu trắng xám, độ chịu lửa là 1560 độ C - Tuy là loại đất tốt nhưng đất sét Trúc Thôn cũng có một số mặt bị hạn chế vì trong đất có chứa hàm lượng oxyt sắt khá cao, khi sấy khô, đất ngót đi, thì màu không được trắng
 
Đất mịn chịu được lửa cao
Khó tan trong nước xôn xao làng nghề
Nhưng hàm lượng oxyt tái tê
Nên khi nung nóng lê thê biến màu.
 
-2/ Giai đoạn pha chế đất: Trong đất làm nguyên liệu thường có lẫn tạp chất , đồng thời còn tùy theo từng loại gốm theo nhu cầu khác nhau để pha chế khác nhau thành sản phẩm phù hợp cho từng loại đồ gốm để pha thêm cao lanh ở mức độ nhiều ít - Người dân Bát Tràng sử dụng phương pháp ngâm nước trong bể chứa, gồm 4 bể ở độ cao thấp khác nhau:
 
-- Bể thứ nhất cao hơn cả, gọi là "bể đánh": dùng để ngâm đất sét thô vào nước, thời gian ngâm khoảng 3-4 tháng. -Đất sét qua tác động của nước sẽ bị phá vỡ các kết cấu hạt nguyên thủy và qua quá trình phân rã. Dân gian gọi đơn giản là ngâm lâu cho đất nát ra. - Khi đất đã "chín" (đó cách gọi của dân gian), đánh đất thật lỏng. Sau đó tháo hỗn hơp lỏng này xuống bể thứ hai.
 
-- Bể thứ hai gọi là "bể lắng" hay "bể lọc": Tại đây đất sét lóng xuống - Một số tạp chất (nhất là các chất hữu cơ) nổi lên, phải loại bỏ chúng ra. Sau đó múc chất hồ loãng, từ bể lắng sang bể thứ ba.
 
-- Bể thứ ba gọi là "bể phơi": Dân Bát Tràng thường phơi đất ở bể này khoảng 3 ngày, sau đó chuyển sang bể thứ tư.
 
-- Bể thứ tư là "bể ủ": Tại bể ủ, oxyt sắt (Fe 2, O3), và các tạp chất khác bị khử bằng phương pháp lên men, tức quá trình vi sinh vật, khử các chất có hại nằm trong đất. Thời gian ủ càng lâu càng tốt
 
Bể đánh, bể lọc, bể phơi
thêm bể ủ nữa cho đời biết tay
Bốn đoạn pha chế dài ngày
Gốm sứ sàng lọc cả ngày lẫn đêm
Tráng men tô vẽ ngọt mềm
Người yêu gốm sứ đã quen lâu rồi.
 
Qua phần tạo dáng, người Bát Tràng theo dáng cổ truyền là làm bằng tay trên cái bàn xoay. Trong phân đoạn này, người thợ dùng lối gọi là "vuốt tay, be chạch" trên bàn tay, công việc này trước đây dành cho phụ nữ - Thợ ngồi trên ghế cao hơn mặt bàn, dùng chân quay cái bàn xoay và bàn tay vuốt đất tạo hình dáng sản phẩm
 
Tay nắn chân quay, bàn xoay vò nhuyễn
Phụ nữ làm nghề be chạch bằng tay
Bàn xoay bất kể đêm ngày
Cho ra sản phẩm bằng tay nhà nghề.
 
Đất sét trước khi đưa vào bàn xoay, được vò thật nhuyễn, cuốn thành từng thỏi rồi nén cho ngắn lại, sau đặt vào giữa bàn mà xoay, vỗ, nén cho đất dính lại thật dẻo, gọi là "đánh cừ" và "ra hương", chủ yếu bằng 2 ngón tay bên phải. Sau đó kéo đất theo ‎mức độ cần thiết để định hình sản phẩm. Sau đó món đồ được đặt vào cái bửng. Việc các phụ nữ dùng bàn xoay vuốt tạo dáng cho món hàng là công việc phổ biến ở các lò gốm VN không riêng tại Bát Tràng, nhưng lại khá xa lạ với một số thợ gốm phương Tây
 
Trời Tây trời Việt vẫn khác nhau
Mỗi phương mỗi hướng mỗi màu không gian
Tạo thành quan niệm dân gian
Thói quen tích lũy chứa chan cuộc đời.
 
Tuy nhiên kỹ thuật này ngày nay cũng mất dần không mấy người Bát Tràng còn dùng đến "be chạch" và vuốt sản phẩm như thế nữa - Người thợ đắp nặn gốm là người có trình độ kỹ thuật và mỹ thuật khá cao
 
Họ có thể nặn hoàn chỉnh nguyên một sản phẩm, hoặc có khi chỉ nặn từng bộ phận sau đó ghép lại thành sản phẩm. Việc tạo hình theo khuôn in, khuôn bằng thạch cao hay khuôn gỗ đều được - Cái khuôn đặt giữa bàn xoay, ghim chặt lại cho cố định, làm láng sạch lòng khuôn rồi ném mạnh cục đất vào giữa lòng khuôn cho bám chắc, vét đất lên vành khuôn và quay bàn xoay cho tới mức đủ để thành sản phẩm
 
Thì ra khuôn mẫu sẵn sàng
Cục đất lẹ làng in dấu của khuôn
Hàng trăm sản phẩm dễ thương
Giống y khuôn đúc con đường hôm xưa.
 
Cách tạo dáng đúc khuôn cùng một lúc có thể tạo ra hàng loạt sản phẩm giống nhau rất nhanh và giản tiện - Tạo hình xong, là công đoạn phơi sấy cho khô mà không bị nứt nẻ, không làm mất dáng của món hàng và tiến hành cắt sửa hàng mộc (mộc mạc ban đầu) tức là cắt gọn chỗ thừa, bồi đắp chỗ khuyết, chắp nối các bộ phận như vòi ấm, quai tách, khoan lỗ, tỉa lại đường nét hoa văn và dùng thuật xoa nước cho mịn mặt hàng....
 
Kỹ thuật của Bát Tràng là hong khô hiện vật trên cái giá để nơi thoáng mát. Ngày nay dùng lò sấy, tăng dần nhiệt độ từ từ cho nước bốc hơi
 
Trăm hay không bằng tay quen
Là để phục vụ sang hèn thế gian
Nghề nào cũng thật đa mang
Cũng phải học hỏi chu toàn mới nên.
 
Còn kỹ thuật trang trí hoa văn họa tiết trên món hàng của làng Bát Tràng là dùng bút lông vẽ trên nền gốm mộc
 
Thợ vẽ gốm là thợ có tay nghề chuyên môn để trang trí làm sao cho món hàng đẹp mắt, mỹ thuật nâng lên mức nghệ thuật để mỗi món hàng là một tác phẩm nghệ thuật. Biết vẽ vời trang trí bôi vẽ men, chảy màu men đúng mức - Sau này làng Bát Tràng sử dụng kỹ thuật vẽ trên nền gốm đã nung sơ lần một với kỹ thuật hấp hoa, tức là in sẵn hình trên mẫu nhập từ nước ngoài. Kỹ thuật này tuy đẹp, nhanh, nhưng không phải là nghệ thuật sáng tạo đã có từ truyền thống gốm Việt Nam
 
Sáng tạo là phải vẽ vời
In sẵn thì cứng nghề chơi héo mòn
Tài hoa nghệ sĩ héo hon
Bàn tay hoa bướm đâu còn thấy vui.
 
Trong phần chế tạo men, men tro là men đặc sắc của gốm bát tràng, ngoài ra còn men màu nâu, trong men bao gồm men tro cộng với 5% đá thổi (tức hỗn hợp oxyt sắt và oxyt mangan lấy ở Phù Lãng, Hà Bắc.
 
- Từ thế kỷ 15, Bát Tràng chế tạo loại men lam nổi tiếng. Men lam là loại men được chế từ đá đỏ, đá thối, nghiền nhỏ trộn với men áo. Loại men này phát màu ở 1250 độ C.
 
Men tro trộn với men nâu
Thành men hỗn hợp đứng đầu loại men
Đá đỏ, đá thối trộn nên
Cộng thêm men áo phát màu ở nhiệt độ cao
Men rạn hồng nhạt lao xao
Trộn vôi với trấu, cao trào Hải Dương.
 
Đầu thế kỷ 17, người Bát Tràng dùng vôi sống, tro trấu và cao lanh ở chùa Hội thuộc Bích Nhôi, Kinh Môn, Hải Dương, nó có màu hồng nhạt để chế thành một loại men mới gọi là men rạn.
 
Chế tạo men của Bát Tràng là các nguyên liệu đã lọc kỹ trộn vào nhau, khuấy tan trong nước, khi lắng xuống thì bỏ phần nước trong ở trên và bỏ cả phần bã đọng ở dưới, chỉ lấy các dị chất lơ lửng ở giữa. Đó chính là lớp men bóng để tráng bên ngoài đồ vật
 
Cũng là kỹ nghệ chuyên môn
Của người thợ gốm cho bền thời gian
Khi xưa đồ gốm là sang
Của người trưởng giả hân hoan phô bày
Bây giờ men sứ ngất ngây
Gốm sứ nhẹ, mỏng, chiều say nắng hè.
 
Sau phần chế tạo men, sản phẩm hoàn chỉnh đến phần tráng men. - Người thợ gốm sẽ nung sơ bộ các sản phẩm ở nhiệt độ thấp sau đó đem tráng men, cũng có khi tráng men rồi đem nung. Dù bằng cách nào thì trước khi tráng men, sản phẩm phải được làm sạch bụi bằng chổi lông. Kỹ thuật tráng men có nhiều hình thức như: phun men, dội men lên bề mặt, nhúng vào men nếu là sản phẩm nhỏ... Nhưng khó hơn cả là hình thức "quay men" và "đúc men". Quay men nghĩa làtráng men cả mặt trong lẫn mặt ngoài cùng một lúc. Còn đúc men nghĩa là chỉ tráng men trong lòng sản phẩm.
 
Và đấy chính là những thủ pháp tráng men của thợ gốm Bát Tràng. Nó vừa là kỹ thuật vừa là nghệ thuật, đã được bảo tồn qua nhiều thế hệ, thậm chí đã từng là bí quyết nghề nghiệp của dân làng này
 
Nghề gì cũng có gia truyền
Bao đời lưu giữ vẫn y nguyên
Truyền bao thế hệ cho con cháu
Lề thói xưa nay chẳng thất truyền....
 
Tất nhiên người thợ gốm phải tu chỉnh tất cả những khiếm khuyết của món hàng, như đắp thêm chỗ khuyết, cạo bỏ chỗ dư... trước khi đưa vào lò nung. **Lò nung của Bát Tràng thì có nhiều loại: Lò ếch, lò đàn, lò bầu (hay lò rồng), lò hộp (hay lò đứng), lò con thoi (hay lò gas).
 
- Và từng loại lò nung gốm sứ của Bát Tràng như sau:
 
Lò nung gốm sứ của Bát Tràng
Lò này lò nọ cũng ngổn ngang
Người dân xứ ấy giờ xa lắm
Nhưng tiếng còn truyền trong âm vang.
 
--1/Trước hết là lò Ếch: Là kiểu lò gốm cổ xưa nhất được sử dụng phổ biến ở khắp nơi. Hiện nay tuy mất hết dấu tích nhưng qua các nguồn tư liệu gián tiếp, người ta hình dung được lò này có hình dáng giống như con ếch dài khoảng 7m, bề ngang chỗ rộng nhất là 3-4m. Cửa lò rộng chừng 1,2 m, cao 1m - Đáy lò phẳng nằm ngang, vòm lò cao từ 2m đến 2,7m - Bên hông lò có một cửa ngách rộng 1m, cao 1,2m dùng vào việc chồng lò, đốt lò và chất dỡ sản phẩm. - Đối với loại lò này, người ta dùng các loại rơm, rạ, tre, nứa, sau đó kết hợp với các loại củi để đốt lò
 
Lò ếch trông giống như con ếch
Lò cổ xưa tuy không tồn tại đến bây giờ
Nhưng nguồn tư liệu còn mơ
Một loại lò cổ ban sơ của làng.
 
--2/ Lò đàn: Xuất hiện vào giữa thế kỷ 19. Lò đàn có bầu lò đàim, rộng 2,5m, cao 2,6m, được chia thành 10 bích bằng nhau - Vị trí phân cách giữa 2 bích là 2 cột - Cửa lò rộng 0,9m, cao 1m. -Cái bích thứ 10 gọi là bích đậu, thông với đường thu khói qua 3 cửa hẹp. - Để giữ được nhiệt, bích của lò kéo dài và ôm lấy buồng thu khói
 
Chữ của người xưa đôi khi khó hiểu
Vì đó là của chữ địa phương
Ngày nay tạm hiểu để thân thương
Cũng là điểm lại tà dương bồng bềnh.
 
- Lớp vách trong ghép bằng gạch Bát Tràng. Lớp vách ngoài xây bằng gạch dân dụng. - Mặt dưới của cật lò gần như bằng phẳng, mặt trên thì hình vòm khum khum - Hai bên cật lò từ bích thứ 2 đến bích thứ 9, người ta mở kín đáo 2 lỗ cửa tròn, đường kính chừng 0,2m gọi là các lỗ giòi để ném nhiên liêu vào trong lò. - Riêng bích đậu người ta mở lỗ đậu (còn gọi là lỗ giòi rộng hơn nửa mét. Nhiệt độ lò đàn có thể đạt được 1250 -1300 độ C.
 
Bầu của lò đàn dài hơn lò ếch
Nhưng bề rộng thìlại hẹp hơn
Vách trong ghép gạch Bát Tràng
Các lỗ giòi rộng hơn nửa mét.
 
-3/ Lò bầu (lò rồng): Xuất hiện đầu thế kỷ 20. Lò bầu chia làm nhiều ngăn, thường từ 5 đến 7 bầu (cũng có khi 10 bầu). Bầu lò có vòm cuốn liên tiếp vuông góc với trục tiêu của lò tựa như những mảnh vỏ sò úp nối với nhau. Người ta dùng loại gạch chịu lửa để xây vòm cuốn của lò - Lò này dài 13m, cộng với đoạn xây ống khói ở phía đuôi dài 2m nữa, tính như vậy toàn bộ lò là 15m. Độ nghiêng của trục lò từ 12 đến 15 độ. Nhiệt độ của lò bầu có thể đạt tới 1300 độ.
 
Lò bầu dài có ống khói phía đuôi
Vòm cuốn vuông góc với trục tiêu của lò
Gạch xây vòm cuốn của lò
Giống như hai mảnh vỏ sò úp nhau
 
--4/ Lò hộp (lò đứng): Từ 1975 trở lại đây, người Bát Tràng chuyển sang xây lò hộp để nung gốm. Lò này cao chừng 5m, rộng 0,9m. Bên trong xây bằng gạch chịu lửa giống như xây tường nhà. Lò mở 2 cửa, kết cấu đơn giản, chiếm ít diện tích, chi phí xây lò không nhiều, tiện lợi cho mọi gia đình, vì vậy hầu như gia đình nào cũng có lò gốm. Thậm chí có nhà có tới 2 hay 3 lò trong nhà. Nhiệt độ lò có thể đạt dược là 1250 độ.
 
Dần dần cải tiến việc xây lò
Cái lò nho nhỏ cái lò xinh xinh
Ngày xưa đất rộng nên ngông
Ngày nay gọn nhẹ dễ trông dễ nhìn.
Khi chuyển sang loại lò đứng này, nguồn nhiên liệu để gầy lò là củi, đốt lò thì dùng than cám, than cám nhào với đất bùn theo tỉ lệ nhất định, đóng thành khuôn hay nặn thành bánh nhỏ phơi khô. Đôi khi người ta nặn than ướt rồi đập lên tường khô, để tường hút nước cho than khô nhanh và mau cứng dùng được ngay.
 
Ngày ấy toàn dùng những thủ công
Tận dụng tự nhiên để dự phòng
Có đâu hiện đại như thời mới
Quay trở về xưa suối ngược dòng.
 
--5/ Lò con thoi (hay lò gas): Những năm gần đây, Làng Bát Tràng xuất hiện những kiểu lò hiện đại gọi là lò con thoi, dùng nhiên liệu là khí đốt hoặc dầu. Trong quá trình đốt, nhiệt độ được theo dõi bằng hỏa kế, để tăng giảm nhiệt độ, mặc dù sự tăng giảm nhiệt độ có nhiệt kế theo dõi bằng bán tự động, hoặc tự động. Công việc đốt lò hiện đại loại này trở nên đơn giản, đỡ khó nhọc hơn nhiều... nhưng tất nhiên nó không được tính vào loại lò truyền thống của Bát Tràng
 
Khí đốt lò gas đỡ khổ nhiều
Cái gì truyền thống cũng quan liêu
Khi xưa rắc rối và quan trọng
Ngày nay đơn giản đỡ bao nhiêu.
 
- Trước đây các lò gốm Bát Tràng dùng gạch vuông ghép lại làm bao nung, một bao nung có thể dùng từ 15 đến 20 lần - Và loại gạch này sau hai ba lần sử dụng trong lò đạt tới độ lửa cao thì cứng gần như sành - Đó chính là gạch Bát Tràng nổi tiếng trong dân gian
 
Thì ra là gạch Bát Tràng
Để xây hồ nước cho nàng rửa chân
Loại gạch nổi tiếng hồng trần
Bao nhiêu công khó phù vân mấy đời
Gạch này là hỗn hợp tuyệt vời
Đất sét chịu lửa trộn bột gạch một trời công phu.
 
.... Qua những kỹ thuật, những công phu từ việc chọn đất, pha chế đất, xử l‎ý mọi tình trạng của đất cũng như phơi đất, tạo dáng, và kỹ thuật trang trí. Chế tạo men, tráng men... Rồi tới đắp lò, hình dáng các loại lò qua từng thời đoạn và nhiệt độ nung lò, cũng như nhiên liệu để làm bao nung và nhiệt độ cần thiết để nung gốm từ thời xa xưa tới thời hiện đại, chúng ta mới thấy nghề làm gạch, tráng men và gốm sứ của Bát Tràng nghiên cứu công phu và dày công cực khổ.
 
Người dùng chỉ hưởng dụng thôi
Có đâu nghĩ tới công người hôm xưa
Mồ hôi nước mắt cho vừa
Công lao gian khó ngày xưa để đời
Anh chàng lãng tử kia ơi
Anh thốt những lời làm mát lòng nhau
Anh làm nhỏ lệ dòng châu
Xây hồ bán nguyệt mối sầu thiên thu.
 
Tóm lại nghề gạch, gốm sứ Bát Tràng hoàn toàn sản xuất theo thủ công. Nó thể hiện tài năng của người thợ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Do tính chất được cấu tạo và cấu thành từ các nguồn nguyên liệu tạo gốm và tạo dáng đều bằng tay, nên được quí.
 
Ngày nay các trang quảng cáo hay các quảng cáo trên truyền thanh truyền hình... các cơ sở thương mại chuyên về sành sứ, dù đang ở thời hiện đại, nhưng vẫn nhấn mạnh và phô trương những sản phẩm là "home made", hay "hand made"... để thấy những sản phẩm làm từ bàn tay người, được trân quí và đắt giá.
 
Sản xuất tại nhà làm bằng tay
Vẫn được trân quí dù thời này thời kia
Sản xuất hàng loạt lia chia
Chỉ là thương mạiđầm đìa thế gian
Độc nhất vô nhị mơ màng
Hàng không bị đụng thế gian mong cầu.
 
Những sản xuất công nghiệp hàng loạt dù đẹp, nhưng không được đánh giá cao bằng sản phẩm làm tại tư gia hay từ bàn tay con người. Áo đan bằng tay cũng vậy, đan tay vừa chậm, vừa có thể không bền chặt bằng đan máy, nhưng được đánh giá rất cao vì giá trị cả về mặt tinh thần, tâm hồn và tình thân nằm trong đó
 
Công phu người quí lắm thay
Mồ hôi nhỏ giọt nắng vàng say
Công thương kỹ nghệ thời này
Ào ào không đủ đắm say lòng người.
 
Các đồ gốm gia dụng tức đồ dùng trong nhà như các loại đĩa bát chén, chậu hoa, âu, ang, lu, khạp, khay trà, ấm trà, ấm điếu, nậm rượu - Các đồ gốm dùng trong việc thờ cúng như các loại chân đèn, chân nến, lư hương, đỉnh thờ... đều là sản phẩm có giá trị đối với các nhà sưu tầm đương đại. 
 
Nhà sưu tầm coi trọng tháng năm
Tháng năm của kiếp con tằm nhả tơ
Thời gian trôi những hững hờ
Để tâm hồn dệt thành thơ cuộc đời
 
Nhất là trên nhiều món đồ dùng ấy, có những minh văn, hoa văn, ghi rõ họ tên tác giả, ghi cả quê quán năm tháng chế tạo, nhiều cái còn ghi tên của người đặt hàng - Đó cũng là nét đặc biệt trong đồ gốm Bát Tràng - Về các món trang trí thì có như: mô hình nhà, các loại tượng nghê, tượng ngựa, tượng Di Lặc, tượng Kim Cương, tượng hổ, tượng voi, tượng người ba đầu, tượng ngàn tay ngàn mắt, tượng đầu khỉ mình rắn, mình rồng... không kể hết.
 
Gốm sứ ôi chao thôi đủ cả
Một cuộc đời đầy rẫy những đam mê
Âm thanh xưa vọng lại những não nề
Ngôi làng cũ buồn lê thê theo lịch sử
Trong nghệ thuật chẳng bao giờ thấy cũ
Để dội về những nét đan thanh
Bát Tràng xưa âm vang những xây thành
Óc sáng tạo của người xưa nước Việt.
 
Gạch Bát Tràng thì sao? - Đặc biệt như thế nào mà nổi tiếng? Gạch Bát Tràng không chỉ nổi tiếng với thương hiệu, mà bởi phẩm chất đặc biệt của sản phẩm với những đặc điểm như:
 
-1/ Gạch Bát Tràng có kích thước và kiểu dáng khác biệt.
 
-2 Gạch Bát Tràng ấm về mùa đông, mát về mùa hè.
 
-3/ Gạch Bát Tràng không lên rêu mọc mốc.
 
-4 Gạch Bát Tràng chịu lực giỏi, chịu nhiệt cao.
 
-5/ Gạch Bát Tràng có độ bền tối ưu.
 
-6/ Gạch Bát Tràng có tính thẩm mỹ.
 
-7/ Gạch Bát Tràng là loại gạch được dùng làm nguyên liệu xây dựng Hoàng thành Thăng Long và nhiều công trình lịch sử khác....
 
Và nghe đâu đây câu ca lục bát tình tứ khéo tán tỉnh của anh chàng lẻo mép dẻo mồm, bày tỏ tình cảm với người con gái hôm xưa nơi bản làng quê, lại vọng về "Trên trời có đám mây xanh/ Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng/ Ước gì anh lấy được nàng/ Để anh mua gạch Bát Tràng về xây/ Xây dọc anh lại xây ngang/ Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân/ Có rửa thì rửa chân tay/ Chớ rửa lông mày chết cá ao anh...
 
Ca dao lục bát Việt Nam
Dễ đọc dễ nhớ đến ngàn năm sau
Cầu cho con trẻ thấm mau
Nhớ chữ, nhớ tiếng nước Việt làm câu trau mình
Mây trời vẫn đẹp vẫn xinh
Ngôn ngữ tiếng Việt trữ tình đáng yêu
Bát tràng xa vắng một chiều
Bây giờ nhắc lại đáng yêu trữ tình
 
(Trích trang 184 tập 9, trong bộ Biên khảo 12 cuốn "Xã Hội Việt Nam và Nay" của tác giả Nguyễn Thị Mắt Nâu, phát hành 2019)
 
Nguyễn Thị Mắt Nâu

 

Tìm các bài BIÊN KHẢO khác theo vần ABC . . .

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com