Hệ Thống Giáo Dục Công, Tư
Ở Việt Nam thời xưa, trước thời Pháp thuộc, nền giáo dục được chia thành hai thành phần:
Giáo dục tư thục
Căn bản được thực hiện trong làng, xã hay trong một đơn vị hành chính nhỏ thuộc địa phương. Người dạy thường gọi là “ông Đồ” hay “thầy Đồ”. Ông Đồ có thể là người biết chữ nhưng chưa đỗ đạt, hoặc là người đỗ đạt làm quan đã về hưu hay những người đã đỗ đạt nhưng không chịu ra làm quan. Họ sống đạm bạc trên sự đóng góp tự nguyện của học trò dành cho thày. Bên cạnh đó thày được sự trọng vọng của học trò và làng xóm cũng như xã hội. Học trò coi thày như cha ngay khi thày còn sống hay đã chết. Học trò học dưới cùng một mái trường được gắn bó với nhau về tình cảm và thường được gọi là “đồng môn”.
Giáo dục công lập
Ở địa phương. Giáo dục công được thiết lập từ cấp huyện, người đứng đầu là một quan Huấn đạo hay quan Huấn; ở cấp phủ có quan Giáo thụ hay quan Giáo; ở cấp đạo có có quan Điển học; ở cấp tỉnh có quan Đốc học hay quan Đốc, người trông nom giáo dục cho toàn tỉnh.
Ở kinh thành Thăng Long xưa. Có một trường dành cho các Hoàng tử, con các quan trong triều gọi là Quốc Tử Giám. Người đứng đầu trường này là quan Tư nghiệp, một vị quan hạng tứ phẩm trong triều. Sau này trường được mở rộng ra đón nhận cho những học trò giỏi được tuyển chọn trong toàn quốc được gọi là Giám sinh. Những Giám sinh ở đây được trải qua một giai đoạn học tập để chuẩn bị cho những cuộc thi cử cấp cao với học vị cấp Tiến sĩ được bổ vào làm quan trong triều. Trường này có thể coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam.
Trên cùng, cơ quan cao nhất của nền giáo dục là Hàn lâm hay Tập hiền gồm những người có phẩm chất đạo đức và phẩm tước cao.
Sách Giáo Khoa
Sách giáo khoa được sử dụng trong giáo dục và thi cử: Tam Tự Kinh, Thiên Tự Văn, Tứ Thư, Ngũ Kinh, Tam Truyện, Sử và Luật.
Tam Tự Kinh
Cuốn sách viết dưới dạng thơ 3 chữ dành cho trẻ con mới học. Nội dung là những lời khuyên hữu ích thể hiện qua những câu châm ngôn như “Nhân chi sơ, tính bổn thiện; tính tương cận, tập tương viễn.” (Khi mới sinh ra, bản chất con người là tốt; bản chất con người là giống nhau, nhưng thói tục khiến họ khác nhau)
Thiên Tự Văn
Đây là cuốn sách gồm một nghìn chữ. Sách được nổi tiếng nhờ sự sắp đặt từ ngữ một cách xác đáng chứ không phải do sự phong phú của ý tưởng hay sự trong sáng của văn chương. Sách này được ra đời bởi một câu chuyện khá lý thú:
Chu Hưng Tự hay Tư Toản là một văn sĩ nổi tiếng bị ngồi tù vì trọng tội. Vua Vũ Đế nhà Lương (502-550) ra một đặc ân là sẽ tha tội nếu Tư Toản có thể hoàn thành những vần thơ trong số một nghìn chữ do vua chọn mà không có chữ nào được lập lại. Ông đã hoàn tất công việc này trong vòng một đêm. Tuy vậy, sáng ra tóc ông đã bạc phơ.
Tứ Thư hay Tứ Truyện
Bốn tác phẩm kinh điển: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử.
Đại Học do Tăng Tử viết. Nội dung sách nói về sự tu dưỡng bản thân và ứng xử trong xã hội. Gồm 7 điểm tuần tự: Cách vật, tức đào sâu kiến thức; Trí tri, tức mở mang trí tuệ; Thành ý, tức thực tâm mong nuốn; Chính tâm và tu thân, tức sửa mình; Tề kỳ gia, tức chăm sóc gia đình; Trị quốc, tức cai trị đất nước; Bình thiên hạ, tức làm cho an dân, yên ổn.
Có những câu như:
- Giàu có làm đẹp nhà cửa, đức độ làm đẹp tấm thân (Phú nhuận ốc, đức nhuận thân)
- Đức là cái gốc, của là cái ngọn (Đức giả bản dã, tài giả mạt dã)
Trung dung do Tử Tư viết. Tử Tư là con của Bá Ngư tức là cháu nội đích tôn của Khổng Tử. Ông dạy rằng Đạo trung dung là lẽ tự nhiên của của trời đất, con người phải theo lý tự nhiên ấy mà sống mà giữ mình theo cái trung dung trong mọi hoàn cảnh. Ông trình bày những nguyên tắc, nếu tuân thủ theo, sẽ tìm được sự thanh liêm vốn có của mình, sánh ngang với trời đất. Có câu như:
- Thương yêu người thân là đức lớn (Thân thân vi đại)
Luận Ngữ: Cuốn sách này do học trò của Khổng Tử ghi lại những lời ngài giảng dạy, hay những cuộc đối thoại của ngài với học trò. Giọng văn trịnh trọng, lời văn sâu sắc đôi khi đến khó hiểu. Sách được viết sau khi ngài mất. Có những câu như:
- Điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác (Thi chư kỷ nhị bất nguyên, diệc vật thi ư nhân)
- Người quân tử hiểu rõ về nghĩa, kẻ tiểu nhân hiểu rõ về lợi (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi)
- Năng lực người quân tử như gió, năng lực của kẻ tiểu nhân như cỏ; gió thổi trên cỏ ắt cỏ nép xuống (Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo; thảo thượng chi phong, tất yển)
- Điều nhỏ không nhịn thì làm hỏng mưu lược lớn (Tiểu bất nhẫn, tắc loạn đại mưu)
Mạnh Tử: Sách do Mạnh Tử viết, trình bày dưới dạng đối thoại, bao gồm những lời răn dạy với những tư tưởng sâu sắc; văn phong luôn trong sáng, mượt mà. Sách được chia làm bảy chương: ba chương đầu là Mạnh Tử thượng và bốn chương sau là Mạnh Tử hạ.
Ngũ Kinh
Gồm 5 cuốn kinh điển: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu.
Kinh Thi: Đây là tập thi ca, gồm 311 bài thơ, chia ra nhiều thiên, mỗi thiên gồm nhiều chương hay thư. Lối văn cổ điển, vần thơ đẹp, nhiều cảm hứng, được lấy từ những chuyện tình ủy mị hay phóng túng. Tác phẩm gồm bốn phần: Quốc phong, Tiểu nhã, Đại nhã và Tụng.
Quốc phong là phần thơ gồm 160 bài ca dao dân gian kể về phong tục của 15 nước chư hầu ở Trung Hoa. Đây là phần hay nhất của toàn bộ tác phẩm, nhưng có nhiều chỗ miêu tả về tình yêu xác thịt rất lộ liễu.
Tiểu nhã và Đại nhã, nội dung liên quan tới con người và sự việc trong vấn đề giải quyết công việc liên quan tới hành chính. Tiểu nhã gồm 80 bài thơ, Đại nhã gồm 31 bài thơ.
Tụng hay xướng, lại chia làm ba phần nhỏ: Chu tụng, Lỗ tụng, Thương tụng
Chu tụng, gồm 31 bài tụng ca, được sáng tác để ca tụng những tiền nhân sáng lập nhà Chu.
Lỗ tụng, gồm 14 bài thơ ca ngợi những vị vua nước Lỗ
Thương tụng, gồm 4 bài tụng ca ngợi Thành Thang, tổ tiên lập ra nhà Thương và một số vị vua khác.
Kinh Thi được bắt đầu sáng tác vào khoảng thế kỷ thứ 14 trước Công nguyên (Tr.CN).
Kinh Thư: Kinh Thư do Khổng Tử viết lại, gồm 4 phần: Ngu thư, Hạ thư, Thương thư và Chu thư, chứa đựng nhiều lời giáo huấn hữu ích về đạo đức của các đấng quân vương. Kinh Thư bị mất sau việc đốt sách của Tần Thủy Hoàng, nhưng vào năm 176 (Tr.CN), Hoàng đế Văn Đế đã phục hồi được kinh này nhờ một ông già còn thuộc toàn bộ, và đến đời vua sau đó người ta đã tìm thấy một bản gốc ở dưới ngôi nhà đổ nát của Khổng Tử.
Kinh Dịch: Nội dung cốt lõi của Kinh Dịch dựa trên nguyên lý vũ trụ. Mọi hoạt động, biến hóa vô cùng của mọi sinh linh, kể cả tinh thần, tư tưởng đến vật chất đều dựa trên hai nhân tố thiết yếu là âm và dương. Âm dương có thể diễn tả bởi sự kết hợp qua những thẻ quái, hay những hình tượng để giải thích sự bí ẩn của tự nhiên, những lời sấm truyền và giải quyết những khó khăn trong cuộc sống. Kinh Dịch được viết, ít ra là những nét chính yếu, từ thế kỷ thứ 13 hay 12 (Tr.CN).
Kinh Lễ hay Lễ Ký: Ghi chép về các lễ nghi, cấu thành nền tảng phong tục tập quán của Trung Hoa và các nước chịu ảnh hưởng văn hóa ấy. Cuốn sách được chia làm nhiều phần: Khúc lễ, nói về chi tiết của các nghi lễ; Tăng Tử vấn, nói về những câu hỏi của Tăng Tử; Nội tắc, nói về quy tắc trong gia đình; Tế nghĩa, nói về ý nghĩa của các nghi lễ... Có những câu như:
- Đàn ông không nói chuyện trong nhà, đàn bà không nói chuyện ngoài đường (Nam bất ngôn nội, nữ bất ngôn ngoại)
Xuân Thu: Cuốn sách này còn gọi là Biên niên của Khổng Tử, do chính Khổng Tử biên soạn. Sách liệt kê những việc làm chính của 12 vị vua nước Lỗ theo thời gian.
Tam Truyện
Nội dung những cuốn sách này là bình luận về kinh Xuân Thu, gồm:
Tả Truyện, đặt theo tên tác giả là Tả Khưu Minh.
Công Dương Truyện, đặt theo tên tác giả là Công Dương Cao.
Cốc Lương Truyện, đặt theo tên tác giả Cốc Lương Xích.
Sách sử
Gồm sử Việt và sử Trung Hoa. Sử Trung Hoa được đọc nhiều hơn cả chẳng hạn như các cuốn: Hạ Ký, cuốn sử viết về triều đại nhà Hạ; Đường Ký viết về triều đại nhà Đường; Hán Sử viết về triều đại nhà Hán ... Sử Ký là một tác phẩm đồ sộ về lịch sử nhưng cũng được coi là một tác phẩm văn học bởi văn phong mạch lạc và nhẹ nhàng của nó.
Luật
Học luật hiện hành ở thời buổi đó.
Nguyễn Giụ Hùng
(Sưu tầm, chọn lọc, và tổng hợp)