Hoài Ziang Duy, theo như phần tác giả tự giới thiệu, anh là người làm thơ rất sớm và đồng hành cùng nhiều anh em khác, đặc biệt ở Châu đốc, quê nhà cuả anh. Những Ngô Nguyên Nghiễm, Mặc Lan Hoài, Phạm Yến Anh, Lưu Nhữ Thụy, Nguyễn Thành Xuân…
Gia nhập quân đội và cũng đau niềm đau chung đất nước. Tù đày và bỏ nước ra đi. Xứ người, tâm trạng ray rứt, cuộc sống mới đầy những thử thách, và ở anh, khám phá một lối suy nghĩ rất xác thực.
Mùa xuân nơi đất khách đã được nhiều quý thi nhân miêu tả và qua cá nhân anh nỗi rung động được thể hiện bằng “môi mềm tỉnh say”, cũng là lẽ thường hằng, nhưng nỗi dằn dặt một bóng dáng quê hương ngàn dặm vẫn trĩu nặng trong lòng:
Tác giả băn khoăn, đặt cơ hồ không biết bao nhiêu câu hỏi: ”Tâm nhân ái thiên đường đóng cửa, sông sâu cạn lắng, đại bác xưa đâu tiếng nghẹn lời, nụ tầm xuân gieo mầm khổ hạnh..”, những dòng tư tưởng chảy miên man trong trí óc còm cõi của tác giả:
hoặc hoang tưởng rất đổi:
Vẫn chung dòng chảy quê hương, có khác chăng hình ảnh nơi chôn nhau cắt rốn qua vị trí địa lý, nhân văn, tôn giáo của mỗi miền:
Hay so sánh cùng với đất mới quê người, một nơi cửa nhà luôn luôn đóng và một nơi lúc nào cũng rộng mở:
Năm cũ trôi qua, chiến chinh đã tàn, như ước mơ của một người thơ của thập niên sáu mươi: ”Em ơi ngựa đã xa bầy - Chiến chinh rồi cũng có ngày sẽ tan - Mặc Yên Thùy”. Nhưng tan như thế cuộc này, đã gây thương tổn cho con người, lúc nào cũng suy tư, mẫn cảm như anh thì thật là oan khiên, nghiệp chướng:
Câu thơ làm xao xuyến hồn người. ”Chật bề lưng mà rộng lấy tình người.”
Vẫn ai hoài xót xa như Trần Hoài Thư, nhớ những người chiến hữu đã buông tay đâu đó ở một vùng quê Bình Định hay suối rừng Tây Nguyên hoang vu. Ở Hoài Ziang Duy, thân tại ngục trung mà: ”Đêm Ba Mươi ta ngồi nhớ nước - Hồn tịnh tâm sâu lắng xích xiềng - Chén trà thơm tình già vị ý - Nước đâu còn cạn nỗi oan khiên”.
Mùa xuân của tác giả, buồn, đau lẫn lộn, dài như đêm Ba Mươi tối tăm, chờ ngày mai tươi sáng đúng nghĩa, vẹn tình.
Và bâng khuâng tư lự:
Tác giả trăn trở, và dường như chỉ tâm sự với chính mình, một con tim khổ nạn trong bể dâu đời: ”Như chuyện kể, tích xưa - Không có kẻ thắng người thua - Chỉ là tuồng bỏ cuộc - Từ bài học phẩm giá chiến tranh - Không có phần tiết hạnh”- Đêm Bến Sông Xưa trang 20).
Tâm tình ấy được thể hiện rõ nét trong bài “Tự Tình Khúc trang 22”:
Nỗi u uất của tác giả chùng nặng tưởng như không bao giờ đặt xuống được. Đi có nghĩa là rời xa một điểm và đến một nơi nào, theo tác giả ví dụ qua toàn bài, tưởng như những hình nhân chuyển động trong cuộc sống. Phương thức đi cũng được tác giả trình bày thú vị như ”đi nghĩa là đứng lại, đi bằng hai cẳng ngược, đi làm thi sĩ, sư ôm bình bát, lưng bà chùn bước, từ em vạt nắng chân son, trẻ thơ bước…”. Nhưng trong bước đi ấy vẫn mang nỗi nhớ trong lòng, một không gian mộng tưởng nào đó, một cuộc chia ly khởi thủy từ nguồn cội dân tộc:
Một ý tưởng lạ, đẹp hay là một mối tình vụng dại của thời thơ ấu, khoảng không gian có áng mây trôi, con hẻm nhỏ ngày hai buổi đi về. Thế sự đổi dời, tình cờ chân bước qua cảnh cũ, một đêm nào thao thức:
Cũng không thể không nhắc đến nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà trong thi tập ”Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím” với những câu gợi nhớ đến vùng quê của Hoài Ziang Duy:
Ở tác giả, tình tự khúc chiết hơn,vì là hơi thở của con người Hoài Ziang Duy trải dài theo năm tháng thăng trầm cuả đời sống. Những gió Cầu Quan, Bồ Đề đạo tràng ngay giữa lòng thành phố, như một biểu hiện rõ nét màu sắc tôn giáo của dân miền Tây, đặc biệt Châu Đốc là nơi huyền nhiệm, phát sinh ra nhiều tôn giáo.
Như những lời vỗ về, nâng niu đời nhau trong cuộc sống, nhẹ gót thăng trầm, để thấy đời còn bao dung:
Những câu: ”Mưa hay nước mắt hai hàng - Mưa Trong Hồn Lục Bát trang 36“ đến “Trời tháng Tư buồn cho cả năm - Ai Nhủ Lòng Đau trang 37”, nỗi đau se sắt nhẹ nhàng đến “Như Là Như Thế Nào trang 38”, cơn đau bật thành tiếng khóc, như một bức họa sống, vẽ vời muôn cảnh trạng đau lòng, quyện trong những thanh âm buồn tưởng chừng không rơi rớt một tiếng nhạc hân hoan:
Hay đắm hồn trong lời tụng niệm “Qua đi qua đi, bên kia bến bờ, qua đi qua đi”… Cuối cùng, tác giả vẫn không tin vào hiện thực phô bày:
Tác giả,dường như, mà nỗi bi thiết siết chặt từng sợi dây thần kinh, máu tim cũng co thắt từng cơn ”Thành sầu khổ sao phá vẫn không tan” và “Sớm hôm nay, ai xuống phố ngỡ ngàng - Chung cây cỏ, màu hoa thay sắc lạ”. Sự từ khước một hiện thực đớn đau vẫn vây chặt lấy mình, tác giả vô hình chung như lạc loài vào cõi âm ty địa ngục, một chấp nhận không thể khả thi cho tác giả vào giai đoạn đen tối này:
Tác giả có những câu lục bát dễ thương như ”Chỉ Một Mình Ta trang 52 - Khóc đi câm nín nỗi lòng- Môi khô mắt nghẹn bềnh bồng thời gian- Chén ly bôi vỡ hồn tàn- Nghe khua phố cũ muộn màng gót đêm..” Hoặc quấn quít bên nhau trao đổi chút ân tình: ”Dấu sao hương lửa ngọc ngà - Lối đi dưới lá đời thà như mưa - Lối Đi Dưới Lá Đời Thà Như Mưa trang 53). Có thể đây là những vướng mắc trong lòng tác giả, nên Hoài Ziang Duy chọn bài thơ này làm nhan đề cho thi tập.
Nội tâm tác giả luôn luôn mâu thuẫn, những ngày hạnh phúc, yên ổn quê người, lại thấy xót xa thời khốn cùng ở quê hương, lúc xa rời lửa đạn lại nghe nằng nặng nỗi trách hờn bản thân với tâm tình vong quốc.
Trong “Hoà Bình Giã Biệt trang 60”, tác giả sầu quay quắt trong vòng kẽm gai, ôm bóng mình cô độc, chí cao mà canh tàn chiếu lụn. Chẳng lẽ không có lối thoát, và an phận kiếp đọa đày. Hoài Ziang Duy hẳn phải nhớ những ngày chiến đấu gian khổ, nhưng có tình chiến hữu, có không khí tự do, cũng xuôi ngược từ Chương Thiện về giải tỏa cho An Lộc vào mùa hè đỏ lửa 1972. Đoạn video này được tác giả lưu giữ như một sử liệu quý giá vô vàn cho đời chiến đấu của anh.
“Đêm mơ từ tiếng nổ” quả là một giấc mơ hiện thực của tác giả, trong đó tình ngưới đứng dậy theo cùng nỗi vui lan tỏa mọi miền đất nước: ”Đã sáng lên - Đời hân hoan bước mới - Pháo nổ cao pháo chụp trời tỏa sáng - Ngẩng cao đầu chờ buổi vinh quang”. Tay trong tay reo hò như buổi mai dựng cờ chiến thắng:
Hòa bình đến, cho trẻ thơ những nụ cười, chân tung tăng trên đồng lúa hay bên lũy tre làng, em rạng rỡ môi cười ôm nhành lúa mới, quên đi những ngày nắng xế, những đêm buồn, những đau thương tai kiếp. Ôi cả một trời dấu yêu bừng dậy đón gió tự do. Và nghe tác giả hân hoan đi nối lại tình người, sau những năm bị ngủ quên, bị trói buộc trong thời hoàng hôn nhân thế:
Trường khúc này cuả tác giả như một lời hiệu triệu khích động mọi người tham gia cho ngày hội lớn. Tâm hồn tác giả rung động dạt dào và ước mơ như biển rộng sông dài của ý nghĩa tự do.
Sáu năm trong vòng lao lung, tác giả buồn sâu kín. Nhìn buổi chiều đang chết và đêm thản nhiên trêu ghẹo nỗi xót xa của mình, cũng như chiêm nghiệm nỗi cay đắng về tình bạn đồng minh. Hoài Ziang Duy đã có những ưu tư sâu thẳm, và giọt lệ của anh nếu có là những giọt lệ tiễn đưa hồn người về nơi miên viễn.
Do đó, đất nước tác giả rơi vào những hệ lụy, tang thương cùng cực. Đó hẳn phải là nguyên nhân khiến chàng gần như lúc nào phẫn hận:
Và cuối cùng tác giả cảm hoài:
Như một lời trần tình tha thiết gởi người bạn đồng minh trên quê hương Việt Nam nhục nhằn, khổ nạn. Chúng tôi mở vòng tay chào đón sự trợ giúp của các bạn trong hy vọng quê hương chúng tôi sớm có thanh bình. Cùng lúc đó, các anh cũng mang vào những hệ lụy của xã hội cùng nhịp nhàng với cường độ chiến tranh gia tăng: ”Với cuộc tình vung vãi rớt rơi – Building đường phố, mìn nổ không thưa”.
Hay của một tương lai vô định:
Tâm trạng của những người con nước Việt, ưu thời mẫn thế, nhất là đang ở giai đoạn cầm súng, cách suy nghĩ do đó cũng chân thật, rộng mở hơn.
Trong “Mưa Bay Trong Đời trang 82”, tác giả có những câu thơ nhẹ nhàng: “Yêu đã bao chiều vẫn thấy yêu - Ngàn năm mưa vẫn nói trăm điều - Bâng khuâng nghe chút tình chăn chiếu - Ai lấp ban đầu nỗi tịch liêu” hoặc cùng âm điệu tha thiết trong “Bàn Tay Mùa Đông trang 83”:
Và trong “Bài Ru Phương Thảo trang 84”, tác giả ngậm ngùi trong thân phận loi lẻ, mồ côi:
Hoặc sầu cảm gặp một người: ”Kiếp ca cầm che giấu lấy niềm đau”, hồn thơ rung những cung bậc xót xa:
Chặng cuối cuộc đời được tác giả phác thảo: ”Nấm khô đất lạ đen già tuổi đơn”, lòng vẫn nhớ về phương Đông với cuộc tình thanh xuân:
Nằm trong định luật chung của kiếp người, tác giả an nhiên: ”Nắm đầu dây thòng lọng - Tự tròng cổ lấy mình”. Hãy chấp nhận những gì xảy ra cho đất nước, hãy âu lo thắp sáng cuộc sống mình. Bởi ước nguyện của tác giả như mây cao, biển rộng, vẽ ra một chân trời mới, một vận hội mới cho quê hương đã tàn lụi theo bụi thời gian:
Trong “Lối Đi Dưới Lá Đời Thà Như Mưa”, Hoài Ziang Duy đã dành gần hơn nửa thi phẩm diễn đạt tâm trạng đớn đau, ray rứt, đôi khi u uất về một quê hương bị “đóng cửa“ rất chân tình và cũng rất tội tình. Nỗi lòng ấy, nếu không phải phát xuất từ tình yêu đất nước đậm đà và trách nhiệm ân cần của người cầm súng, giữ đất, an dân. Chúng ta xem lại những tựa đề: ”Đã Lỡ Cơn Đau Ngày Bóng Xế, Ta Nhớ Giùm Ta Đêm Ba Mươi, Đêm Bến Sông Xưa, Như Là Như Thế Sao, Nỗi Buồn Kinh Kha, Hòa Bình Giã Biệt, Sáu Mùa Đông Trên Một Chiếc Xe Tang, Nói Với Người Bạn Đồng Minh...” là những nỗi niềm, vết đau, đay nghiến hồn tác giả khôn nguôi.
Dù tác giả đã phân chia rõ ba phần chánh trong thi tập: Phần một - Quê hưong, phần hai – Vó bụi chiến trường, phần ba - quê người, nhớ lại. Tuy nhiên, chúng ta vẫn thấy ẩn hiện, rải rác trong thi tập, vì sao anh bỏ súng và vì sao anh rời quê hương.
Theo thiển ý chúng tôi, tác giả là một người đã dâng hiến trọn tâm hồn và thể xác mình cho quê hương rất tận tụy, một người mà tâm sự lúc nào cũng canh cánh: ”Ta đuổi bước - Cuộc hôm nay tiếng nổ đời hẹn ước“ để hoài vọng: ”Nay đã tỏ - Hoà bình ơi thánh thót...”.
Thơ anh như chất cà phê quánh đặc, khi thưởng thức, chúng tôi chỉ thấm giọng qua vị giác, khoan thai, từ tốn, bởi hồn anh say ngủ trong thơ, kết tinh thành những mạng nhện buồn, hận mênh mang…
Tập thơ do Thân Hữu xuất bản năm 2007
Tranh bìa: Nguyễn Quốc Tuấn
Trình bày & Lay out: Nghiêu Minh
Ấn loát: Huỳnh Thị Bé Năm
Dec-2013
* (Đây chỉ là cảm nhận riêng tư của người đọc thơ viết về một người thơ. Mong quý bạn đọc thông cảm nếu có gì sai sót).