Tên thật là Nguyễn Hữu Thành (1948-2011), ông là một nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo, với bút danh là Nguyễn Tôn Nhan.
Sự nghiệp văn chương của ông chủ yếu ở mảng biên khảo với hơn năm mươi tác phẩm nghiên cứu và dịch thuật. Đặc biệt nhứt là các bộ Bách Khoa Thư Văn Hóa Cổ Điển Trung Quốc, Hoài Nam Tử và Đại Từ Điển Thơ Đường.
Về thơ, ngoài một số bài thơ ông đăng trước năm bảy lăm trên một số tạp chí, ông còn xuất bản hai thi tập, Thánh Ca và Lục Bát Ba Câu.
******
Thơ Chữ Hán
贈慶長 (Tặng Khánh Trường)
Sự nghiệp văn chương của ông chủ yếu ở mảng biên khảo với hơn năm mươi tác phẩm nghiên cứu và dịch thuật. Đặc biệt nhứt là các bộ Bách Khoa Thư Văn Hóa Cổ Điển Trung Quốc, Hoài Nam Tử và Đại Từ Điển Thơ Đường.
Về thơ, ngoài một số bài thơ ông đăng trước năm bảy lăm trên một số tạp chí, ông còn xuất bản hai thi tập, Thánh Ca và Lục Bát Ba Câu.
******
Thơ Chữ Hán
贈慶長 (Tặng Khánh Trường)
已多珠涙已多懷 dĩ đa châu lệ dĩ đa hoài
且惜蟾花閃閃乖 thả tích thiềm hoa thiểm thiểm quai
倚瘦枝霜光白玉 ỷ sấu chi sương quang bạch ngọc
重聲月夢馥瓊苔 trùng thanh nguyệt mộng phức quỳnh đài
過深更影縻遼也 quá thâm canh ảnh my liêu dã
到晩晨之睡寂哉 đáo vãn thần chi thụy tịch tai
盡獻人間千美意 tận hiến nhân gian thiên mỹ ý
使離忘卻早天涯。 sử ly vong khước tảo thiên nhai
Đã nhiều nước mắt nhớ nhung hoài
Tiếc vì cảnh đẹp sớm tàn phai
Bày chút nhành sương xao ngọc trắng
Thèm nghe trăng mộng thoảng hương nhài
Lún mãi vào đêm chưa hết vắng
Ngủ say chiều muộn vẫn chưa ngoai
Dâng hết cho đời bao ý đẹp
Thì quên cách biệt kiếp nay dài
**
Khi tìm tòi trên mạng, tôi phát hiện ra, trong rất nhiều bài thơ làm bằng chữ Hán của Nguyễn Tôn Nhan, sau đó, có dịch sang tiếng Việt, tôi tình cờ thấy một bài thơ, với lời đề tặng người bạn vong niên vốn rất thân với tôi, họa sĩ, nhà văn Khánh Trường.
Trong bài này, chữ thơ đã đẹp thì chớ mà ý thơ của ông cũng đẹp không kém. Bài thơ thất ngôn bát cú của Nguyễn Tôn Nhan với niêm luật chặt chẽ, được viết bằng một ngôn ngữ giản dị mà vẫn thấy ra nét ngọc châu, cẩm tú; thanh nhã mà vẫn thấy ra được sự mỹ lệ, tự nhiên.
Cảnh đẹp cũng như người tốt vậy đó, chúng không bền bỉ và sớm tàn phai. Đời thường như thế, thành thử mới cứ mãi niềm luyến tiếc, thành thử mới cứ mãi nhớ nhung triền miên, thành thử con người ta mới cứ hoài rơi nước mắt.
Thành thử mới thèm nghe trong trăng, bóng mộng thoảng hương nhài. Thèm có chút nhành sương bày xôn xao màu ngọc trắng. Thèm được hưởng tàn đêm cơn rất vắng. Thèm đắm vào chiều muộn giấc khôn ngoai.
Đã dâng hết cho đời bao ý đẹp. Hỏi chớ quên được không, dẫu cách biệt đã muôn lần, trong kiếp dài dằng dặc!
******
Thơ Bảy Chữ
Như bao nhà thơ thuộc miền Nam trước năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm, Nguyễn Tôn Nhan viết nhiều thể loại thơ. Vần có, tự do có. Thơ vần thì đủ hết, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ, lục bát.
Thơ ông sâu lắng, đầy hoài niệm. Ông thường kiếm tìm trong quá khứ những kỷ niệm xưa, những dư âm, như hương thơm, còn đọng lại đôi ba, nay đem ra, nương nhờ vào, rồi gắng mà sống cho qua, gắng mà sống cho xong cái kiếp người, vốn quá chừng chừng, khổ lụy.
**
Bài thơ bảy chữ Thèm Xưa dưới đây, ông viết vào năm một ngàn chín trăm tám mươi tư:
rơi đi, mảnh trăng xưa đầu núi
kêu thương, chim chóc ở đâu xa
chút gì, khói sương sao tàn vội
mong manh, cành nhánh trước hiên nhà
lặng im, những hồn ai ngoài ấy
bến sông, nghe gãy một dây cầm
rượu rót, nửa say men đã dậy
ca cuồng, không áp nổi sầu câm
rơi rồi, mảnh trăng thơ dại cũ
gãy rồi, dây nguyệt bến sông lưa
bốc lên, mùi tanh tao cỏ mộ
chôn đi, chưa hết những thèm xưa.
**
Cái kiểu làm thơ của tôi, xem chừng ra, cũng có đôi ba nét, giông giống ông Nguyễn Tôn Nhan.
Ấy là, thích tự buộc mình vào một cái luật nào đó. Luật ấy, vốn xuất phát từ thơ thuộc thể vần, cũng có, mà luật đó, tự tác giả nghĩ ra, chế ra, cũng có luôn.
Nhiều người không hiểu, cứ nghĩ, những người làm thơ vần, sao họ lại ưng bị bó buộc thế nhỉ. Sao không gắng thoát ra, phá bỏ xích xiềng vần điệu, phá bỏ các luật lệ rối ren, trói mình, khiến mình bị hạn chế.
Không phải vậy đâu. Có hạn chế chi đâu nà.
Tôi không biết những người làm thơ vần, họ nghĩ gì trước thắc mắc này của nhiều người. Chớ còn riêng tôi, nói thiệt, tôi thích mà.
Tức là, tôi thích các trói buộc ấy, thích các khó khăn ấy. Bó buộc, mà thơ vẫn rất thoát, mới thần sầu, đúng không. Luật lệ, mà thơ vẫn rất thơ, vẫn rất bay bổng, vẫn rất lãng mạn, thì mới tuyệt đỉnh công phu.
Không phải vậy sao.
**
Trong bài này, Nguyễn Tôn Nhan, ổng tự đặt luật cho ổng, đó là: Thứ nhứt, các chữ đầu câu, không viết hoa. Thứ nhì, không hề có một dấu câu nào xuất hiện, ngoại trừ, sau hai từ ở đầu mỗi câu, ông đặt một cái dấu phẩy. Cái dấu phẩy ấy, khiến câu thơ bị ngắt tuần tự, lặp lại.
Và giọng thơ, vì thế, khi đọc lên, chúng trở nên mạch lạc, dứt khoát.
Và câu thơ, vì thế, vừa như câu nghi vấn, mà lại vừa như câu khẳng định.
**
Rơi đi, sao mà treo hoài vậy, mảnh trăng xưa đầu núi. Kêu thương, sao mà giọng cứ hoài, chim chóc ở đâu xa. Chút gì, còn chút gì không, sao chưa chi, mà khói sương tàn vội. Mong manh, trước gió và mưa, những cành nhánh trổ hiên nhà.
Khổ một này, tả cảnh!
**
Lặng im, những linh hồn ai ngoài xa ấy. Bến sông, nghe như gãy một dây cầm. Rượu rót, mới nửa bình thôi, men say đã dậy. Ca cuồng, giọng đã cất lên rồi, xem chừng, chẳng thể áp chế được mối sầu, tưởng đã nín bặt, câm.
Khổ hai này, nói về tình người trong cảnh!
Siêu nhứt của Nguyễn Tôn Nhan ở khổ này, là ổng viết được cái câu “gãy một dây cầm”.
Xưa giờ, nghe đứt một dây đàn thì có, chớ tôi chưa từng nghe ai nói, gãy một dây đàn bao giờ.
Gãy, nó ghê gớm lắm. Gãy, khác với đứt nhiều lắm. Đứt, chỉ chảy máu tay, chút đỉnh, nhưng thay được ngay dây đàn khác và đàn lại có thể, lập tức, tiếp tục sử dụng. Nhưng gãy ấy mà, gãy cây đàn, hoặc chúng ta thường nghe, gãy một nhịp cầu, gãy một cây cầu, muốn sửa được, muốn vá được, muốn đập bỏ, xây mới để đi lại được, cũng phải mất đến hàng tháng, hàng năm, thậm chí, hàng nhiều năm.
Gãy, vất vả, gian nan lắm. Nên, gãy một dây cầm, hay gãy một mối tình, nó cũng oan ức, nó cũng đột ngột và hậu quả của nó, cũng khiến người trong cuộc phải đau lòng xiết bao.
**
Rơi rồi, mảnh trăng thơ dại cũ. Gãy rồi, dây nguyệt bến sông lưa. Bốc lên, mùi tanh tao cỏ mộ. Chôn đi, chưa hết những thèm xưa.
Mọi thứ tan tành rồi, tiêu tùng rồi. Không còn gì nữa, ngoài mùi tanh cỏ mộ. Tanh là bởi vì, trong ngôi mộ ấy, là xác của những kỷ niệm xưa.
Khổ thứ ba giải thích nội dung chính của bài: Thèm Xưa!
Giải thích, xưa là mối tình. Giải thích, thèm xưa, nghĩa là thèm lắm mối tình xưa. Mối tình xưa đã gãy. Mối tình xưa đã chết, và được chôn rồi, dưới đất mộ sâu.
******
Lục Bát Ba Câu
Lục bát ba câu, nghĩa là, bài thơ lục bát đó, chỉ có ba câu. Mở đầu là một câu sáu. Kế tiếp là một câu tám. Và kết thúc là một câu sáu.
Ba câu như thế này, với tác giả, nó được xem là một bài thơ trọn vẹn. Nhưng với bạn đọc, với những bạn có thói quen nhìn lục bát tròn trịa, có thể các bạn sẽ cảm thấy bài thơ như còn thiêu thiếu gì đó, chưa xong, chưa trọn vẹn. Các bạn có nghĩ như vậy thì cũng chẳng sao.
Tôi tạt qua chuyện tôi một xíu, năm 2014, 2015, khi viết lục bát, tôi luôn kết thúc bài thơ của tôi là một câu sáu chữ.
Tại sao ư? Trước hết, là tại tôi muốn khác người ta một chút. Sau nữa, lúc ấy, tôi tự lý luận, tôi tự “triết” thế này: cuộc đời có tròn trịa bao giờ đâu, tình yêu có trọn vẹn bao giờ đâu, thì một bài thơ, tại sao lại không thể dang dở?
Hết hai năm thử nghiệm ấy, tôi trở về kết thúc cũ, nghĩa là, kết thúc bài thơ bằng một câu tám chữ.
Bạn sẽ lại hỏi tôi, vì sao? Thưa, vì cảm thấy chán rồi. Thử nghiệm, cũng đã thử nghiệm qua rồi. Không thích lối mới nữa, thì quay về lối cũ thôi.
Nguyễn Tôn Nhan viết hàng trăm bài lục bát ba câu, và ông không đặt tựa đề cho chúng. Tôi sẽ điểm qua một vài bài để các bạn hình dung lục bát ba câu của Nguyễn Tôn Nhan.
**
tương lai quá khứ trong tay
muốn rung chẳng đổ muốn lay chẳng rời
nên anh thả sức rong chơi.
Tương lai là chuyện chưa biết, quá khứ là chuyện đã qua; hai thứ ấy, ông cho rằng, chúng: trong tay, muốn rung chẳng đổ mà muốn lay, chúng cũng chẳng chịu rời cho.
Trong tay ở đây, có nghĩa là, nó thuộc về mình đấy, nhưng mình không quản được nó. Rung cho đổ cũng không được mà lay cho rời ra, cũng chẳng xong.
Vậy thì mình phải làm sao? Ông trả lời, nên thả sức rong chơi!
**
cõi này là để chơi hoang
mai kia cõi ấy dịu dàng lặng câm
rỗng rang chẳng một vọng âm.
Nguyễn Tôn Nhan nói đúng. Cõi người này, há chẳng phải là một trò chơi của thượng đế tung vào, bày ra, buộc con người phải tham gia, buộc con người phải sống chết với những hơn thua đầy may rủi đó sao. Con người tự tổ chức chơi, tự đặt ra luật lệ chơi, tự dàn xếp với nhau, cả những gian lận, tráo trở, đổi trắng thay đen.
Thôi thì, đã trót vào cái cõi ta bà, thì gắng mà hoàn tất vòng chơi vậy. Và đừng thiêng liêng hóa, đừng nghiêm trọng hóa, đừng thần thánh hóa cõi người mà làm gì, bởi vì, cõi người, nó hoang dại; bởi vì, cõi người, nó hoang dã; bởi vì, cõi này, kiểu nào thì kết cục cũng chẳng ra đâu vào đâu.
Mai kia, hy vọng ở cõi ấy, mới tìm được những dịu dàng lặng câm, những rỗng rang, chẳng một vọng âm.
**
thưa em cái gọi linh hồn
từ lâu anh đã đem chôn mất rồi
một. hai. ba. bốn. lìa đôi.
Cái linh hồn, cái tâm hồn, cái phần bên trong của thể xác, cái trái tim, từ lâu, ông Nguyễn Tôn Nhan, ổng đã đem chôn nó rồi.
Vì sao ư? Chèn ơi. Nó có cả ngàn lý do luôn bạn ơi. Biết lý do nào đầu tiên, hay đặc biệt, để kể ra cho bạn biết bây giờ.
Chôn linh hồn là bởi vì buồn quá, bởi vì chán quá, bởi vì tâm hồn bị đày đọa quá, nên thôi, chôn nó đi cho rồi.
Hoặc giả, tác giả đem chôn, sau khi ông bị mất đi niềm tin, chẳng hạn, hay sau một cuộc đau thương, khiến đời ông hẻm cụt, chẳng hạn.
Hoặc, sau một, hai, ba, bốn lần lìa đôi. Là lìa đôi uyên ương đó.
**
ăn xin một chút mơ mòng
em keo kiệt bỏ anh trong đói nghèo
lui về cốc núi ngủ queo.
Ông làm kẻ ăn xin, xin người ông yêu, cho ông một chút mơ mòng.
Tự nhiên tôi nhớ ngang bài hát Cho Tôi Mơ Giấc Mộng Dài của Phạm Duy, tôi còn trẻ dại, cho tôi mơ mòng.
Rồi ổng trách người tình của ổng, em keo kiệt bỏ anh trong đói nghèo. Thế nên, ổng đành, lui về cốc núi ngủ queo.
Cái hình ảnh cốc núi, cái hình ảnh ngủ queo, nó thiệt là dễ thương, và cả buồn cười nữa.
Tình yêu, nói cho cùng, có tình nào không buồn cười đâu. Già trẻ, lớn bé, nam nữ, vào tình rồi mới biết.
Nó buồn cười, thơ dại và mơ mòng lắm luôn!
******
Kết
Theo tiến sĩ Nguyễn Tiên Yên, những công trình đồ sộ của Nguyễn Tôn Nhan đã đưa tên tuổi của ông trở thành một trong năm học giả Hán Học tiêu biểu nhứt của miền Nam có tên trong bộ từ điển về các nhà Trung Quốc Học trên thế giới do Đại Học Quốc Gia Đài Loan chủ biên.
Nhà văn Ngô Nguyên Nghiễm thì nhận định như thế này: Nguyễn Tôn Nhan đã sáng tạo ra một dòng thơ ba câu như một ẩn mặc thăng trầm trong cái cốt lõi huyền diệu, ngàn năm mới siêu thoát một lần. Đã từng bước đi trong ngõ sáng hóa, lập thuyết cho thơ, nhưng cuối cùng qua ba giai đoạn thơ của Nguyễn Tôn Nhan, anh lại nhập thể hồn Việt vào bản chất thơ lục bát ba câu, mà tôi tạm gọi là sấm thi. Bước qua giai đoạn ẩn dụ, Nguyễn Tôn Nhan đã như một lão Trang Chu lẩn thẩn bước vội trên nét vạch của Hà Đồ Lạc Thư, đưa thơ ba câu trở thành một thừa truyền, khoác vai dịu ngọt với những câu thơ của một Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, tiên đoán vận mệnh năm trăm năm trước và năm trăm năm sau.
**
Còn tôi, thì sau khi đọc thơ ông, cũng như đọc những lời bạn bè nhận xét về ông và việc làm thơ của ông, tôi thấy, ông quả là một người đặc biệt.
Đặc biệt ở chỗ, ông không có điều kiện học hành tới nơi tới chốn, vậy mà, chỉ bằng đam mê, bằng sự tự học, bằng mục đích kiếm cơm, ông đã có thể xuất bản hơn năm mươi đầu sách, trong đó, có những cuốn đồ sộ, dày hai, ba ngàn trang và rất nhiều cuốn thuộc thể loại tự điển, biên khảo, nghiên cứu.
Quá nể phục.
Về thơ, tôi cho ông là một người tài hoa. Đọc một loạt thơ ông, tôi nhận thấy, ông có sức sáng tạo. Đặc biệt, khi ông tự mở lối và đi theo con đường lục bát ba câu.
Tựa đề cho bài viết về Nguyễn Tôn Nhan hôm nay, tôi lấy từ một câu trong bài lục bát ba câu của ông như sau: úm-ma-ni-bát-nê-hồng / ở hoài thế giới mật tông mỏi rồi / cho anh một chút thảnh thơi.
Và, xin phép ông, cho tôi được nối vào một câu tám nữa, để kết thúc bài viết về ông, thi sĩ Nguyễn Tôn Nhan:
úm-ma-ni-bát-nê-hồng
ở hoài thế giới mật tông mỏi rồi
cho anh một chút thảnh thơi
trước khi mai sớm chân rời bước đi.
Sài Gòn 25.03.2024
Phạm Hiền Mây
且惜蟾花閃閃乖 thả tích thiềm hoa thiểm thiểm quai
倚瘦枝霜光白玉 ỷ sấu chi sương quang bạch ngọc
重聲月夢馥瓊苔 trùng thanh nguyệt mộng phức quỳnh đài
過深更影縻遼也 quá thâm canh ảnh my liêu dã
到晩晨之睡寂哉 đáo vãn thần chi thụy tịch tai
盡獻人間千美意 tận hiến nhân gian thiên mỹ ý
使離忘卻早天涯。 sử ly vong khước tảo thiên nhai
Đã nhiều nước mắt nhớ nhung hoài
Tiếc vì cảnh đẹp sớm tàn phai
Bày chút nhành sương xao ngọc trắng
Thèm nghe trăng mộng thoảng hương nhài
Lún mãi vào đêm chưa hết vắng
Ngủ say chiều muộn vẫn chưa ngoai
Dâng hết cho đời bao ý đẹp
Thì quên cách biệt kiếp nay dài
**
Khi tìm tòi trên mạng, tôi phát hiện ra, trong rất nhiều bài thơ làm bằng chữ Hán của Nguyễn Tôn Nhan, sau đó, có dịch sang tiếng Việt, tôi tình cờ thấy một bài thơ, với lời đề tặng người bạn vong niên vốn rất thân với tôi, họa sĩ, nhà văn Khánh Trường.
Trong bài này, chữ thơ đã đẹp thì chớ mà ý thơ của ông cũng đẹp không kém. Bài thơ thất ngôn bát cú của Nguyễn Tôn Nhan với niêm luật chặt chẽ, được viết bằng một ngôn ngữ giản dị mà vẫn thấy ra nét ngọc châu, cẩm tú; thanh nhã mà vẫn thấy ra được sự mỹ lệ, tự nhiên.
Cảnh đẹp cũng như người tốt vậy đó, chúng không bền bỉ và sớm tàn phai. Đời thường như thế, thành thử mới cứ mãi niềm luyến tiếc, thành thử mới cứ mãi nhớ nhung triền miên, thành thử con người ta mới cứ hoài rơi nước mắt.
Thành thử mới thèm nghe trong trăng, bóng mộng thoảng hương nhài. Thèm có chút nhành sương bày xôn xao màu ngọc trắng. Thèm được hưởng tàn đêm cơn rất vắng. Thèm đắm vào chiều muộn giấc khôn ngoai.
Đã dâng hết cho đời bao ý đẹp. Hỏi chớ quên được không, dẫu cách biệt đã muôn lần, trong kiếp dài dằng dặc!
******
Thơ Bảy Chữ
Như bao nhà thơ thuộc miền Nam trước năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm, Nguyễn Tôn Nhan viết nhiều thể loại thơ. Vần có, tự do có. Thơ vần thì đủ hết, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ, lục bát.
Thơ ông sâu lắng, đầy hoài niệm. Ông thường kiếm tìm trong quá khứ những kỷ niệm xưa, những dư âm, như hương thơm, còn đọng lại đôi ba, nay đem ra, nương nhờ vào, rồi gắng mà sống cho qua, gắng mà sống cho xong cái kiếp người, vốn quá chừng chừng, khổ lụy.
**
Bài thơ bảy chữ Thèm Xưa dưới đây, ông viết vào năm một ngàn chín trăm tám mươi tư:
rơi đi, mảnh trăng xưa đầu núi
kêu thương, chim chóc ở đâu xa
chút gì, khói sương sao tàn vội
mong manh, cành nhánh trước hiên nhà
lặng im, những hồn ai ngoài ấy
bến sông, nghe gãy một dây cầm
rượu rót, nửa say men đã dậy
ca cuồng, không áp nổi sầu câm
rơi rồi, mảnh trăng thơ dại cũ
gãy rồi, dây nguyệt bến sông lưa
bốc lên, mùi tanh tao cỏ mộ
chôn đi, chưa hết những thèm xưa.
**
Cái kiểu làm thơ của tôi, xem chừng ra, cũng có đôi ba nét, giông giống ông Nguyễn Tôn Nhan.
Ấy là, thích tự buộc mình vào một cái luật nào đó. Luật ấy, vốn xuất phát từ thơ thuộc thể vần, cũng có, mà luật đó, tự tác giả nghĩ ra, chế ra, cũng có luôn.
Nhiều người không hiểu, cứ nghĩ, những người làm thơ vần, sao họ lại ưng bị bó buộc thế nhỉ. Sao không gắng thoát ra, phá bỏ xích xiềng vần điệu, phá bỏ các luật lệ rối ren, trói mình, khiến mình bị hạn chế.
Không phải vậy đâu. Có hạn chế chi đâu nà.
Tôi không biết những người làm thơ vần, họ nghĩ gì trước thắc mắc này của nhiều người. Chớ còn riêng tôi, nói thiệt, tôi thích mà.
Tức là, tôi thích các trói buộc ấy, thích các khó khăn ấy. Bó buộc, mà thơ vẫn rất thoát, mới thần sầu, đúng không. Luật lệ, mà thơ vẫn rất thơ, vẫn rất bay bổng, vẫn rất lãng mạn, thì mới tuyệt đỉnh công phu.
Không phải vậy sao.
**
Trong bài này, Nguyễn Tôn Nhan, ổng tự đặt luật cho ổng, đó là: Thứ nhứt, các chữ đầu câu, không viết hoa. Thứ nhì, không hề có một dấu câu nào xuất hiện, ngoại trừ, sau hai từ ở đầu mỗi câu, ông đặt một cái dấu phẩy. Cái dấu phẩy ấy, khiến câu thơ bị ngắt tuần tự, lặp lại.
Và giọng thơ, vì thế, khi đọc lên, chúng trở nên mạch lạc, dứt khoát.
Và câu thơ, vì thế, vừa như câu nghi vấn, mà lại vừa như câu khẳng định.
**
Rơi đi, sao mà treo hoài vậy, mảnh trăng xưa đầu núi. Kêu thương, sao mà giọng cứ hoài, chim chóc ở đâu xa. Chút gì, còn chút gì không, sao chưa chi, mà khói sương tàn vội. Mong manh, trước gió và mưa, những cành nhánh trổ hiên nhà.
Khổ một này, tả cảnh!
**
Lặng im, những linh hồn ai ngoài xa ấy. Bến sông, nghe như gãy một dây cầm. Rượu rót, mới nửa bình thôi, men say đã dậy. Ca cuồng, giọng đã cất lên rồi, xem chừng, chẳng thể áp chế được mối sầu, tưởng đã nín bặt, câm.
Khổ hai này, nói về tình người trong cảnh!
Siêu nhứt của Nguyễn Tôn Nhan ở khổ này, là ổng viết được cái câu “gãy một dây cầm”.
Xưa giờ, nghe đứt một dây đàn thì có, chớ tôi chưa từng nghe ai nói, gãy một dây đàn bao giờ.
Gãy, nó ghê gớm lắm. Gãy, khác với đứt nhiều lắm. Đứt, chỉ chảy máu tay, chút đỉnh, nhưng thay được ngay dây đàn khác và đàn lại có thể, lập tức, tiếp tục sử dụng. Nhưng gãy ấy mà, gãy cây đàn, hoặc chúng ta thường nghe, gãy một nhịp cầu, gãy một cây cầu, muốn sửa được, muốn vá được, muốn đập bỏ, xây mới để đi lại được, cũng phải mất đến hàng tháng, hàng năm, thậm chí, hàng nhiều năm.
Gãy, vất vả, gian nan lắm. Nên, gãy một dây cầm, hay gãy một mối tình, nó cũng oan ức, nó cũng đột ngột và hậu quả của nó, cũng khiến người trong cuộc phải đau lòng xiết bao.
**
Rơi rồi, mảnh trăng thơ dại cũ. Gãy rồi, dây nguyệt bến sông lưa. Bốc lên, mùi tanh tao cỏ mộ. Chôn đi, chưa hết những thèm xưa.
Mọi thứ tan tành rồi, tiêu tùng rồi. Không còn gì nữa, ngoài mùi tanh cỏ mộ. Tanh là bởi vì, trong ngôi mộ ấy, là xác của những kỷ niệm xưa.
Khổ thứ ba giải thích nội dung chính của bài: Thèm Xưa!
Giải thích, xưa là mối tình. Giải thích, thèm xưa, nghĩa là thèm lắm mối tình xưa. Mối tình xưa đã gãy. Mối tình xưa đã chết, và được chôn rồi, dưới đất mộ sâu.
******
Lục Bát Ba Câu
Lục bát ba câu, nghĩa là, bài thơ lục bát đó, chỉ có ba câu. Mở đầu là một câu sáu. Kế tiếp là một câu tám. Và kết thúc là một câu sáu.
Ba câu như thế này, với tác giả, nó được xem là một bài thơ trọn vẹn. Nhưng với bạn đọc, với những bạn có thói quen nhìn lục bát tròn trịa, có thể các bạn sẽ cảm thấy bài thơ như còn thiêu thiếu gì đó, chưa xong, chưa trọn vẹn. Các bạn có nghĩ như vậy thì cũng chẳng sao.
Tôi tạt qua chuyện tôi một xíu, năm 2014, 2015, khi viết lục bát, tôi luôn kết thúc bài thơ của tôi là một câu sáu chữ.
Tại sao ư? Trước hết, là tại tôi muốn khác người ta một chút. Sau nữa, lúc ấy, tôi tự lý luận, tôi tự “triết” thế này: cuộc đời có tròn trịa bao giờ đâu, tình yêu có trọn vẹn bao giờ đâu, thì một bài thơ, tại sao lại không thể dang dở?
Hết hai năm thử nghiệm ấy, tôi trở về kết thúc cũ, nghĩa là, kết thúc bài thơ bằng một câu tám chữ.
Bạn sẽ lại hỏi tôi, vì sao? Thưa, vì cảm thấy chán rồi. Thử nghiệm, cũng đã thử nghiệm qua rồi. Không thích lối mới nữa, thì quay về lối cũ thôi.
Nguyễn Tôn Nhan viết hàng trăm bài lục bát ba câu, và ông không đặt tựa đề cho chúng. Tôi sẽ điểm qua một vài bài để các bạn hình dung lục bát ba câu của Nguyễn Tôn Nhan.
**
tương lai quá khứ trong tay
muốn rung chẳng đổ muốn lay chẳng rời
nên anh thả sức rong chơi.
Tương lai là chuyện chưa biết, quá khứ là chuyện đã qua; hai thứ ấy, ông cho rằng, chúng: trong tay, muốn rung chẳng đổ mà muốn lay, chúng cũng chẳng chịu rời cho.
Trong tay ở đây, có nghĩa là, nó thuộc về mình đấy, nhưng mình không quản được nó. Rung cho đổ cũng không được mà lay cho rời ra, cũng chẳng xong.
Vậy thì mình phải làm sao? Ông trả lời, nên thả sức rong chơi!
**
cõi này là để chơi hoang
mai kia cõi ấy dịu dàng lặng câm
rỗng rang chẳng một vọng âm.
Nguyễn Tôn Nhan nói đúng. Cõi người này, há chẳng phải là một trò chơi của thượng đế tung vào, bày ra, buộc con người phải tham gia, buộc con người phải sống chết với những hơn thua đầy may rủi đó sao. Con người tự tổ chức chơi, tự đặt ra luật lệ chơi, tự dàn xếp với nhau, cả những gian lận, tráo trở, đổi trắng thay đen.
Thôi thì, đã trót vào cái cõi ta bà, thì gắng mà hoàn tất vòng chơi vậy. Và đừng thiêng liêng hóa, đừng nghiêm trọng hóa, đừng thần thánh hóa cõi người mà làm gì, bởi vì, cõi người, nó hoang dại; bởi vì, cõi người, nó hoang dã; bởi vì, cõi này, kiểu nào thì kết cục cũng chẳng ra đâu vào đâu.
Mai kia, hy vọng ở cõi ấy, mới tìm được những dịu dàng lặng câm, những rỗng rang, chẳng một vọng âm.
**
thưa em cái gọi linh hồn
từ lâu anh đã đem chôn mất rồi
một. hai. ba. bốn. lìa đôi.
Cái linh hồn, cái tâm hồn, cái phần bên trong của thể xác, cái trái tim, từ lâu, ông Nguyễn Tôn Nhan, ổng đã đem chôn nó rồi.
Vì sao ư? Chèn ơi. Nó có cả ngàn lý do luôn bạn ơi. Biết lý do nào đầu tiên, hay đặc biệt, để kể ra cho bạn biết bây giờ.
Chôn linh hồn là bởi vì buồn quá, bởi vì chán quá, bởi vì tâm hồn bị đày đọa quá, nên thôi, chôn nó đi cho rồi.
Hoặc giả, tác giả đem chôn, sau khi ông bị mất đi niềm tin, chẳng hạn, hay sau một cuộc đau thương, khiến đời ông hẻm cụt, chẳng hạn.
Hoặc, sau một, hai, ba, bốn lần lìa đôi. Là lìa đôi uyên ương đó.
**
ăn xin một chút mơ mòng
em keo kiệt bỏ anh trong đói nghèo
lui về cốc núi ngủ queo.
Ông làm kẻ ăn xin, xin người ông yêu, cho ông một chút mơ mòng.
Tự nhiên tôi nhớ ngang bài hát Cho Tôi Mơ Giấc Mộng Dài của Phạm Duy, tôi còn trẻ dại, cho tôi mơ mòng.
Rồi ổng trách người tình của ổng, em keo kiệt bỏ anh trong đói nghèo. Thế nên, ổng đành, lui về cốc núi ngủ queo.
Cái hình ảnh cốc núi, cái hình ảnh ngủ queo, nó thiệt là dễ thương, và cả buồn cười nữa.
Tình yêu, nói cho cùng, có tình nào không buồn cười đâu. Già trẻ, lớn bé, nam nữ, vào tình rồi mới biết.
Nó buồn cười, thơ dại và mơ mòng lắm luôn!
******
Kết
Theo tiến sĩ Nguyễn Tiên Yên, những công trình đồ sộ của Nguyễn Tôn Nhan đã đưa tên tuổi của ông trở thành một trong năm học giả Hán Học tiêu biểu nhứt của miền Nam có tên trong bộ từ điển về các nhà Trung Quốc Học trên thế giới do Đại Học Quốc Gia Đài Loan chủ biên.
Nhà văn Ngô Nguyên Nghiễm thì nhận định như thế này: Nguyễn Tôn Nhan đã sáng tạo ra một dòng thơ ba câu như một ẩn mặc thăng trầm trong cái cốt lõi huyền diệu, ngàn năm mới siêu thoát một lần. Đã từng bước đi trong ngõ sáng hóa, lập thuyết cho thơ, nhưng cuối cùng qua ba giai đoạn thơ của Nguyễn Tôn Nhan, anh lại nhập thể hồn Việt vào bản chất thơ lục bát ba câu, mà tôi tạm gọi là sấm thi. Bước qua giai đoạn ẩn dụ, Nguyễn Tôn Nhan đã như một lão Trang Chu lẩn thẩn bước vội trên nét vạch của Hà Đồ Lạc Thư, đưa thơ ba câu trở thành một thừa truyền, khoác vai dịu ngọt với những câu thơ của một Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, tiên đoán vận mệnh năm trăm năm trước và năm trăm năm sau.
**
Còn tôi, thì sau khi đọc thơ ông, cũng như đọc những lời bạn bè nhận xét về ông và việc làm thơ của ông, tôi thấy, ông quả là một người đặc biệt.
Đặc biệt ở chỗ, ông không có điều kiện học hành tới nơi tới chốn, vậy mà, chỉ bằng đam mê, bằng sự tự học, bằng mục đích kiếm cơm, ông đã có thể xuất bản hơn năm mươi đầu sách, trong đó, có những cuốn đồ sộ, dày hai, ba ngàn trang và rất nhiều cuốn thuộc thể loại tự điển, biên khảo, nghiên cứu.
Quá nể phục.
Về thơ, tôi cho ông là một người tài hoa. Đọc một loạt thơ ông, tôi nhận thấy, ông có sức sáng tạo. Đặc biệt, khi ông tự mở lối và đi theo con đường lục bát ba câu.
Tựa đề cho bài viết về Nguyễn Tôn Nhan hôm nay, tôi lấy từ một câu trong bài lục bát ba câu của ông như sau: úm-ma-ni-bát-nê-hồng / ở hoài thế giới mật tông mỏi rồi / cho anh một chút thảnh thơi.
Và, xin phép ông, cho tôi được nối vào một câu tám nữa, để kết thúc bài viết về ông, thi sĩ Nguyễn Tôn Nhan:
úm-ma-ni-bát-nê-hồng
ở hoài thế giới mật tông mỏi rồi
cho anh một chút thảnh thơi
trước khi mai sớm chân rời bước đi.
Sài Gòn 25.03.2024
Phạm Hiền Mây