(Câu chuyện sau đây có thật đã xảy ra tại một tỉnh lớn miền Trung nước Đức, vì tôn trọng người ra đi và thân nhân còn ở lại nên BT xin được thay đổi danh xưng và vài chi tiết. Kính mong quý đôc giả thông cảm.)
******
Buổi chiều tan sở tôi như bị cuốn theo làn sóng người trong nhà ga xe lửa.
Tiếng cười nói huyên thuyên, tiếng đàn ca của những nghệ sỹ vỉa hè hoà lẫn mùi nước hoa, thuốc lá, thức ăn... làm giác quan tôi gần như bị tắc nghẹn.
Tôi nhanh chân bước vào toa xe lửa đang chờ sẵn. Thoáng thấy một người đàn ông Việt Nam tôi quen, ông Kiên, đang ngồi lặng lẽ ở hàng nghế cuối cùng. Hôm nào gặp ông tôi cũng thấy ông ngồi chỗ này, gần như bất di bất dịch.
Lẽ ra tôi tìm chỗ ngồi gần người đồng hương này để trò chuyện trong thời gian cùng đi một đoạn đường tàu, nhưng tôi lại kín đáo nhón gót tìm một chỗ ngồi xa khuất, vì thấy ông Kiên như đắm chìm vào thế giới xa xăm nào đó với nét mặt buồn bã đăm chiêu, vài sợi tóc bạc lòa xòa trên trán.
Lòng tôi chùng xuống không muốn quấy rầy thế giới thầm kín riêng tư của người đồng hương, mà tôi biết cuộc đời ông phải chịu nhiều bẽ bàng trên đất khách...
Tháng Tư 1975 sau khi cưỡng chiếm miền Nam bằng súng đạn và phản bội những điều cam kết trước quốc tế, nhà nước CSVN bắt đầu ào ạt mở rộng chiến dịch vơ vét cướp bóc tài sản được gầy dựng bằng mồ hôi nước mắt và sức lao động của người dân miền Nam qua chiến dịch đánh Tư Bản Mại Sản, tịch thu nhà đất dinh thự ruộng vườn, cơ sở kinh doanh, tài sản tôn giáo, lưu đày Quân Cán Chính Miền Nam Việt Nam vào những trại tù khổ sai mà họ gọi là “học tập cải tạo”, và nhiều lần đột ngột mở chiến dịch đổi tiền.
Chỉ vỏn vẹn có một đêm, sáng hôm sau người dân miền Nam đau đớn còn lại hai bàn tay trắng.
Tiếng oán than thấu tận đất trời...
Cùng chung số phận với hàng triệu dân Miền Nam bất hạnh, gia đình Ông Kiên hoàn toàn kiệt quệ, trong hoàn cảnh tuyệt vọng, nỗi đau khổ vô biên, Ông Kiên liều chết cùng với gia đình bỏ nước ra đi.
Một lần nữa nhà nước CSVN lại sử dụng xảo thuật gian manh cố hữu là xuất cảng người qua chiến dịch: “xuất cảnh bán chính thức”. Một đầu người 10 cây vàng, lên taxi 3 cây vàng (từ ghe nhỏ ra tàu lớn đậu ngoài khơi Vũng Tàu) với điều kiện người ra đi không được mang theo bất cứ tài sản nào mà phải “dâng hiến“ cho nhà nước.
Sau khi năn nỉ đi vay mượn khắp nơi, gia đình ông Kiên bước lên chiếc tàu Huê Phong vào tháng 12 năm 1978 và cập bến Hồng Kông sau 5 ngày thuận buồm xuôi gió.
Tháng 2 năm 1979, gia đình ông Kiên có tên trong danh sách được tỵ nạn tại Cộng Hoà Liên Bang Đức. Chính quyền và nhân dân Đức đã mở rộng tấm lòng nhân đạo để đón nhận và cưu mang những người Việt Nam bất hạnh liều chết vượt biển, vượt biên ra đi tìm Tự Do trên quê hương mới.
Trong niềm hạnh phúc vô biên ông bà Kiên cứ ngỡ như được hồi sinh.
Mang trong lòng niềm tri ân nước Đức đã cưu mang gia đình mình nên ông Kiên đã siêng năng, cần mẫn làm việc và cả gia đình vô cùng lạc quan để làm lại cuộc đời.
Ông được Cơ Quan Xã Hội giới thiệu cho một việc làm trong Kantine của một ngân hàng lớn trong tỉnh. Bà Kiên, người vợ hiền hòa, chơn chất, đảm đang thì ở nhà chăm lo cho chồng và đàn con thơ 4 đứa.
Hạnh phúc bình dị này tưởng chừng như là mãi mãi.
Một buổi sáng Bà Kiên thức dậy thấy đau đớn và khác lạ trong người, bà hàng xóm tốt bụng người Đức vội vàng đưa bà Kiên đi khám bác sỹ. Sau khi khám xong, bác sỹ cho biết bà Kiên phải được soi bao tử để tìm ra nguyên do căn bịnh.
Ngày hẹn đã đến, bà được BS chích vào người chất Kontrastmittel để soi ruột, sau đó bà Kiên mê man không tỉnh dậy. Một tuần, hai tuần, rồi một tháng, hai tháng trôi qua... Bà Kiên đã thật sự đi vào cơn hôn mê (koma).
Ông Kiên vô cùng đau đớn trước bịnh tình nguy kịch của vợ. Cả cộng đồng Người Việt Nam Tỵ Nạn đều bàng hoàng thương xót cho gia đình ông Kiên nên xúm lại an ủi thăm nom, thay nhau giúp đỡ ông và chăm sóc đàn con nhỏ.
Một tháng sau bà Kiên được chuyển đến một bịnh viện chuyên môn chữa trị về koma, cách nhà khoảng 100 km.
Trong nghịch cảnh đau đớn và bất ngờ này, Ông Kiên bị đẩy vào hoàn cảnh “gà trống nuôi con“, vừa đi làm vừa nấu nướng chăm sóc cho đàn con dại 4 đứa và mỗi cuối tuần phải đi xa thăm viếng vợ, nên hình dáng ông mỗi ngày một tiều tụy, hốc hác và ông trở nên lặng lẽ hơn bao giờ.
Trong nghịch cảnh này thì tình đồng hương, tình nhân loại thể hiện trọn vẹn ý nghĩa cao đẹp nhất.
Ông Brinkmaler, một nhân viên xã hội, thương tình nên mỗi cuối tuần đều tận tụy, hy sinh thì giờ chở ông Kiên đến thăm vợ trong bịnh viện.
Bác sỹ khuyên ông: sự thăm viếng và chuyện trò của ông và các con là một liều thuốc nhiệm mầu, hiệu quả nhất để giúp cho bà Kiên mau hồi sinh. Nghe theo lời khuyên của bác sỹ, mỗi lần ông Kiên đến thăm bà ở bịnh viện, ông cầm tay bà tâm sự, kể lể niềm nhớ thương vô biên và nỗi vất vả của ông hàng ngày khi vắng bóng vợ hiền.
Ngày qua tháng lại, ông vẫn kiên nhẫn chuyện trò cùng người vợ đang nằm bất động với niềm hy vọng vợ mình sẽ thức tỉnh sau giấc ngủ dài và trở về sum họp cùng ông và đàn con dại.
Xuân qua , hạ đến, thu tàn, đông sang… Thấm thoát mà bà Kiên đã koma hơn 5 năm dài. Tấm lòng thủy chung của ông Kiên vẫn không hề phai nhạt, ông vẫn thương yêu, kiên nhẫn thăm viếng vợ mình, vẫn ngồi bên bà kể lể những nỗi niềm cô đơn quạnh vắng qua dòng nước mắt và vẫn làm tròn bổn phận “gà trống nuôi con”.
Có những lúc đêm về khi các con ông đã an giấc, ngồi một mình trước bức ảnh vợ, ông Kiên lẩm bẩm nói chuyện một mình giữa đêm khuya thanh vắng. Ông tin tưởng rằng với tình yêu tuyệt đối của ông qua thần giao cách cảm, bà Kiên ở trong bịnh viện sẽ cảm nhận được và những dòng máu đỏ sẽ được kích thích, luân lưu bình thường trở lại trong cơ thể để giúp bà Kiên được hồi sinh.
Có những đêm ông đã miên man kể lể trong nỗi niềm xúc động cho đến khi mệt mỏi và ngủ thiếp đi lúc nào không biết...
Một này cuối hạ, xóm tỵ nạn chúng tôi bàng hoàng được tin động trời là ông Kiên sắp ra tòa xin ly dị để lấy vợ mới.
Lúc này thì những ý kiến thuận nghịch, khen chê tha hồ đươc bàn tán như một đề tài nóng bỏng nhất trong thành phố chúng tôi đang cư ngụ. Có người còn thêm bớt vào câu chuyện cho thêm đậm đà, gay cấn.
Việc ra tòa xin ly dị của ông Kiên được giấu kỹ, nhưng không hiểu tại sao cả xóm người Việt Nam đều hay biết rõ ràng chi tiết, rành mạch khúc nôi.
Ngày phiên tòa ấn định, không hẹn mà có rất đông đồng hương Việt Nam bỏ cả công ăn việc làm để đến tham dự. Một phiên tòa hy hữu trong tỉnh nhà.
Hôm ấy ông Kiên vẫn lặng lẽ như thường lệ, nhưng đôi mắt thì sâu và thâm quầng như người đã trải qua những đêm dài thao thức. Chúng tôi đều xúc động và hồi hộp nhìn ông như muốn gởi gấm một tấm lòng thương yêu và thông cảm.
Khi vị Chánh Án đọc tóm tắt tên tuổi, đời sống, nguyên nhân ly dị thì đôi mắt ông Kiên bắt đầu đỏ hoe… Người thông dịch thì dịch trong nỗi niềm xúc động.
Cuối cùng ông Chánh Án hỏi ông Kiên thêm một lần nữa:
- Ông Trần thân mến, ông đã suy nghĩ chính chắn chưa, có phải ông thật sự muốn ly dị vợ hay không?
Khi người thông dịch nói đến câu hỏi này, bất chợt ông Kiên oà lên khóc… Tiếng khóc của ông vang dội trong căn phòng tĩnh lặng của tòa án. Mọi người hiện diên đều lặng im trong nỗi bàng hoàng thương xót. Ông Kiên ôm mặt khóc. Trong tiếng nấc nghẹn ngào, ông kể:
- Cuộc đời chúng tôi gặp muôn vàn đau khổ. Chúng tôi thương nhau từ thuở còn nghèo khó, vì lánh nạn CS nên chúng tôi phải tha phương xứ người. Chúng tôi đã chia sẻ với nhau qua bao thăng trầm trong cuộc sống. Vợ tôi là một phụ nữ hiền lành nhân hậu, suốt cả cuộc đời làm vợ làm mẹ chưa bao giờ bà ấy có được một ngày an nhàn sung sướng. Tôi muốn chờ đợi vợ tôi ngày bà tỉnh dậy...
Thế rồi Ông Kiên khóc thật to, như chưa bao giờ được khóc:
- Em ơi cha con anh khổ lắm em có biết hay không? Thương anh và con em mau tỉnh dậy.
Ông Kiên vừa nói vừa khóc, tức tưởi nghẹn ngào. Đâu đây âm vang tiếng sụt sùi của những người dự thính và có những giòng nước mắt đã hòa theo với người đàn ông bất hạnh này.
Vị Chánh Án kiên nhẫn nghe ông Kiên khóc và kể lể mà nét mặt đầy nỗi xúc động. Ông Brinkmaler, người chuyên viên xã hội, thì ôm vai ông Kiên vỗ về an ủi.
Sau khi thấy ông Kiên đã tìm lại một chút bình tĩnh, vị Chánh Án đằng hắng và thân thiện hỏi:
- Ông Trần thân mến, tôi rất xúc động trước tấm lòng chung thủy của ông. Tôi cũng hiểu nỗi đau khổ của ông, từ khi vợ ông mắc bịnh nặng, nhưng có một điều tôi hoàn toàn không hiểu được, ông thương vợ thương con, ông đã chịu đựng hơn 5 năm dài thế thì tại sao hôm nay ông lại làm đơn xin ly dị?
Khi hiểu câu hỏi của vị Chánh Án, tức khắc ông Kiên chỉ tay về phía người chuyện viên xã hội, trả lời qua tiếng nấc:
- Ông Brinkmaler xúi tôi ly dị và giới thiệu tôi cưới một bà vợ mới.
Cả phòng đều ồ lên trong nỗi kinh ngạc. Một thoáng suy nghĩ, vị Chánh Án nhìn người nhân viên xã hội nghiêm khắc hỏi:
- Ông Brinkmaler xin ông xác nhận lời nói của ông Trần đúng hay sai và cho biết nguyên nhân tại sao?
Ông Brikmaler với đôi mắt đỏ hoe, lúng túng trả lời trong nỗi nghẹn ngào:
- Không có ai hiểu tôi bằng ông Trần, quý vị có biết tôi cũng khổ tâm biết dường nào hay không?
Mỗi cuối tuần tôi lái xe đưa Ông Trần đi thăm bà trong bịnh viện, vì tôi thương xót và cảm động trước hoàn cảnh trái ngang của ông ấy... nên tôi... tôi phải ngồi hàng giờ nhìn và nghe ông Trần tâm sự với vợ qua tiếng khóc. Tuy tôi không hiểu hết nhưng tôi cảm nhận được nỗi đớn đau trong lòng của người đàn ông Việt Nam này, nếu là người Đức chúng tôi thì chắc chắn rằng không có sự việc xảy ra như ngày hôm nay.
Tôi thấy ông Trần mỗi ngày càng tiều tụy ốm yếu. Các con ông thì còn quá nhỏ dại, ông Trần cần có một người vợ bên cạnh để chia sẻ với ông những nỗi nhọc nhằn trên quê hương mới, khi mà tất cả còn rất nhiều xa lạ bỡ ngỡ.
Taị sao chúng ta không suy nghĩ thực tế? Tại sao chúng ta không nghĩ về tương lai 4 đứa con của ông Trần. Tại sao, tại sao?
Cho đến hôm nay 5 năm đã trôi qua, ông Trần có giải quyết được vấn đề này không?
Quý vị có biết những lúc ông Trần đau ốm cũng tôi đưa ông ấy đi bác sỹ, tôi phải đi chợ và nấu cho các con ông ấy ăn, đưa các con ông ấy tới trường học, nhà trẻ...
Tôi rất vui và hạnh phúc khi giúp gia đình ông Trần, nhưng 5 năm qua bà Trần vẫn không bình phục, không hồi tỉnh, thì chúng ta phải làm sao bây giờ. Xin tất cả hiểu cho tấm lòng tôi...
******
Sau phiên tòa hy hữu đó thì cuộc đời ông Kiên vẫn không thay đổi, ông vẫn tự nguyện làm thân “gà trống nuôi con" như ngày nào.
Duyên tụ, nhân sinh, duyên sinh, nhân biến, duyên biến, nhân diệt.
Vài tháng sau, trong một ngày cuối đông, bà Kiên đã thật sự từ giã chồng con, âm thầm ra đi.
Ngày tang lễ của bà Kiên có rất đông bà con, bạn bè thân quen tham dự, tuy không nói ra nhưng tất cả đều xúc động và nghĩ trong lòng “như thế còn hơn...”
Riêng người chuyên viên xã hội giàu lòng nhân ái, ông Brinkmaler, sau đó cũng vĩnh viễn từ biệt chúng tôi, ra đi bởi một căn bịnh thời đại, khi tuổi đời ông còn quá trẻ.
Xóm tỵ nạn chúng tôi buồn hiu hắt như đã mất đi một người thân thương trong gia đình.
******
"Cứ ngỡ sum vầy trên đất khách,
Nào ngờ lưu lạc cõi trăm năm.
Người đi vàng đá ngời son sắt,
Kẻ ở năm canh lạnh chỗ nằm.”
Thương bầy con dại, nhớ người vợ hiền, nên từ đó ông Kiên nguyện làm chiếc lá úa, đơn độc giữa giòng đời xuôi ngược.
Con ông tìm được chõ học hành hay việc làm ở đâu, ông dọn nhà theo đến đó. Ông thuê một căn nhà nhỏ sống một mình, để được gần cạnh các con.
Mỗi ngày, ông thương yêu chăm chút nấu cho con những món ăn quê hương tươm tất ngon lành, giặt ủi cho con từng manh quần tấm áo, lo lắng thuốc men cho con lúc ốm đau, an ủi con khi chúng vấp ngã trên đường đời vạn nẻo...
Niềm hạnh phúc vô vàn và độc nhất của cuộc đời ông Kiên trên quê người là buổi chiều về mấy cha con quay quần bên mâm cơm nóng hổi, vừa ăn vừa nói chuyện trong tình thương yêu đầm ấm, và thường nhắc nhở đến người mẹ hiền, người vợ nhân hậu đã vĩnh viễn ra đi.
Những chú gà con mồ côi mẹ năm xưa, giờ này đã đủ lông đủ cánh, thích bay nhảy trong cuộc đời đầy quyến rũ, nên có những buổi chiều về trên đất khách, trong căn nhà quạnh hiu, ông Kiên thường ôm hình vợ trong tay, chờ đợi con về bên mâm cơm mà đôi lúc tưởng chừng như mòn mỏi sắp hóa đá...
Ngày tháng qua đi... Từ lúc ông Kiên xa rời chốn cũ, chúng tôi không còn gặp gỡ ông thường xuyên nữa. Thỉnh thoảng ông mới về thăm lại thành phố xưa, nơi cất giữ kỷ niệm một quãng đời êm ấm.
Ông Kiên từ giã chúng tôi dọn nhà đi xa nhưng đã để lại cho chúng tôi một gương sáng của hy sinh và thủy chung cao quý.
Phạm Thị Bích Thủy