Một ngày đầu tháng 5 năm 1936, người ta phát hiện ra một người đàn ông nằm chết trên một con thuyền độc mộc giữa dòng sông Sê Pôn bên Lào. Toàn thân ông thâm tím đen vì sốt rét và kiết lỵ.
Thi thể ông nhanh chóng được gia đình đưa về Hà Nội, nơi hàng chục ngàn người sẽ xếp hàng nối đuôi nhau đưa tiễn ông, những chí sĩ yêu nước đương thời như Phan Bội Châu và Huỳnh Thúc Kháng đọc điếu văn khóc ông.
Người nằm xuống là người đầu tiên dịch “Truyện Kiều” từ chữ Nôm ra chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp.
Người đầu tiên dịch Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa từ chữ Hán ra chữ Quốc ngữ.[1]
Người đầu tiên dịch “Những kẻ khốn nạn” (Những người khốn khổ), “Miếng da lừa”, “Ba chàng ngự lâm pháo thủ” và nhiều tác phẩm văn học cổ điển khác từ tiếng Pháp sang tiếng Việt.
Người Việt Nam đầu tiên gia nhập Hội Nhân quyền Pháp.
Người đầu tiên đứng tên xin thành lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
Chủ bút của tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở miền Bắc: Đăng Cổ tùng báo.
Chủ bút tờ tuần báo thuần Việt đầu tiên ở Việt Nam: Đông Dương tạp chí.
Chủ bút của tờ nhật báo đầu tiên của báo chí Việt Nam: Trung Bắc tân văn.
Cái tên của ông sẽ mãi gắn liền với trào lưu báo chí khai phóng Việt Nam đầu thế kỷ XX, thứ đã đặt nền tảng cho không chỉ lịch sử báo chí Việt Nam, mà còn là sự thông dụng của chữ viết tiếng Việt ngày nay.