Con người có bố có ông,
Như cây có cội, như sông có nguồn.
Người Việt thường lấy chữ hiếu làm trọng. Đã có thời gọi là đạo hiếu hay đạo làm con. Đạo là một lối sống ngang hàng như khuôn phép của một tôn giáo. Nếu lấy việc thờ Trời là Đạo của người bình dân Việt Nam, thì việc phụng dưỡng cha mẹ và thờ cúng ông bà tổ tiên là thực hành phần hình nhi hạ của đạo thờ Trời. Đó là điểm đặc sắc của văn hoá Việt. Ngày nay chúng ta còn giữ được đạo hiếu là còn giữ được một phần văn hoá dân tộc, còn giữ được nền tảng gia đình Việt Nam.
Như cây có cội, như sông có nguồn.
Người Việt thường lấy chữ hiếu làm trọng. Đã có thời gọi là đạo hiếu hay đạo làm con. Đạo là một lối sống ngang hàng như khuôn phép của một tôn giáo. Nếu lấy việc thờ Trời là Đạo của người bình dân Việt Nam, thì việc phụng dưỡng cha mẹ và thờ cúng ông bà tổ tiên là thực hành phần hình nhi hạ của đạo thờ Trời. Đó là điểm đặc sắc của văn hoá Việt. Ngày nay chúng ta còn giữ được đạo hiếu là còn giữ được một phần văn hoá dân tộc, còn giữ được nền tảng gia đình Việt Nam.
Làm trai nết đủ trăm đường,
Trước tiên điều hiếu: đạo thường xưa nay.
Công cha đức mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ hai thân.
Thức khuya dậy sớm cho cần,
Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con.
Gần gũi nhất, hiếu là sự đối xử tốt đẹp của con cái đối với cha mẹ. Xa hơn hiếu còn là sự kính trọng biết ơn của con cháu đối ông bà, tổ tiên.
Vua tôi sẵn có nghĩa dày,
Cha con thân lắm, đấng người nên trông.
Khi ấp lạnh, lúc quạt nồng,
Bữa dâng ngon ngọt, bữa dùng sớm trưa.
Ở cho thoả chí người xưa,
Đền ơn trả nghĩa thuở xưa bế bồng.
Ca dao nhìn hiếu một cách thực tế và gắn liền với cuộc sống hằng ngày. Tuy chỉ là nhũng lời ca ngắn gọn, nhưng cũng bao gồm được nhiều vấn đề về hiếu rất thú vị.
1. Hiếu là biết công ơn cha mẹ sinh thành:
Công ơn sinh ra và nuôi dưỡng từ ngày còn ấu thơ:
Ba năm bú mớm con thơ,
Kể công cha mẹ biết cơ ngần nào!
Dạy rằng chín chữ cù lao
Bể sâu không ví, trời cao không bì.
Trong xã hội nông nghiệp, người mẹ thường tự tay nuôi con thơ. Chẳng những cái ăn cái ngủ của con lệ thuộc vào mẹ; mà chính cái ăn cái ngủ của mẹ cũng tùy thuộc vào con:
Gió mùa thu, mẹ ru con ngủ,
Năm canh chầy, thức đủ năm canh.
Nhiều người mẹ đã gầy mòn khô héo vì thức khuya dậy sớm nuôi con:
Ngày nào em bé con con,
Bây giờ em đã lớn khôn thế này:
Cơm cha, áo mẹ, công thầy,
Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao.
Nuôi con cho được vuông tròn,
Mẹ thầy dầu dãi, xương mòn gối long.
Con ơi, cho trọn hiếu trung,
Thảo ngay một dạ, kẻo luống công mẹ thầy.
Nhớ công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ dành cho mình là khởi đầu của lòng hiếu thảo:
Ơn cha nặng lắm ai ơi,
Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang.
Công ơn cha mẹ mang mang cùng đất trời. Nhìn vào đâu con cái cũng thấy công ơn cao dày của cha mẹ:
Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ, ghi lòng con ơi!
Hiếu là căn bản của đời sống Việt Nam. Chính cha mẹ cũng luôn nhắc nhở con cái mình về công ơn lớn lao như trời biển của đấng sinh thành dưỡng dục:
Mẹ nuôi con bấy lâu rồi,
Nuôi con cho đến thành người mới nghe.
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con.
2. Hiếu là nhớ thương cha mẹ khi xa cách:
Trong xã hội nông nghiệp, con cái khi trưởng thành, thường sống chung hoặc sống gần gũi với cha mẹ. Con trai thường xa nhà khi đi lính hoặc đi làm quan sau khi đỗ đạt. Con gái thường xa nhà khi phải lấy chồng xa. Lòng hiếu được giãi bày qua những lời tâm sự nhớ thương.
Ngó lên Hòn Kẽm, Đá Dừng,
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi.
Ngó lên, ngó xuống thì vui,
Ngó về quê mẹ ngậm ngùi nhớ thương.
Niềm nhớ thương đằng đẵng suốt cả cuộc đời:
Ngó lên dàng dạng da trời,
Thương cha nhớ mẹ biết đời nào nguôi.
Xót xa thay cho nỗi nhớ thương của người con phải lìa xa cha mẹ:
Vẳng nghe chim vịt kêu chiều,
Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau.
Thương thay chín chữ cù lao,
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.
Dù cha mẹ có già nua đi nữa, việc xa cha mẹ vẫn là một điều đau khổ cho con cái:
Cha già tuổi đã dư trăm,
Chạnh lòng nhớ tới, đằm đằm châu sa.
Thương cha nhớ mẹ quay quắt trong lòng, đôi khi xáo trộn cả sinh hoạt hằng ngày. Chỉ nghĩ đến cha mẹ không được săn sóc cho được ấm no, người con xa nhà khó lòng vui thú sinh hoạt hiện tại dù chỉ là một bữa ăn hằng ngày:
Gió đưa cây cửu lý hương,
Giờ xa cha mẹ thất thường bữa ăn.
Sầu riêng bữa chẳng muốn ăn,
Đã bưng lấy bát lại dằn xuống mâm
Ngay cả khi đã lớn, thành vợ thành chồng mà cha mẹ chẳng còn thì hằng ngày lòng nhớ thương vẫn canh cánh bên lòng:
Anh làm rể bên em, có cha mà không có mẹ
Em làm dâu bên anh, có mẹ mà không có cha.
Bữa ăn nước mắt nhỏ sa,
Thân phụ ơi thân phụ hỡi, đi đâu mà bỏ con.
Câu cuối nghe xót xa như tiếng khóc nỉ non trong một đám tang.
Nỗi nhớ thương, lòng biết ơn sâu xa càng hiện rõ khi mình nuôi dưỡng chính con cái của mình:
Nuôi con mới biết sự tình,
Cảm thương cha mẹ nuôi mình ngày xưa.
3. Hiếu Là Phụng Dưỡng Mẹ Cha
Ngồi buồn thương mẹ nhớ cha,
Gối loan ai đỡ, kỷ trà ai nâng.
Không được gần gũi, kề cận với cha mẹ già tạo ra nhiều lo lắng nhớ thương:
Đi đâu mà bỏ mẹ già,
Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai dâng?
Không phụng dưỡng được mẹ cha, xem như là bất hiếu:
Mẹ già ở tấm lều tranh,
Đói no không biết, rách lành chẳng hay.
Nuôi dưỡng, săn sóc cha mẹ khi già yếu là hình thức hiếu căn bản trong đời sống gia đình:
Mẹ già đầu bạc như tơ,
Lưng đau con đỡ, mắt mờ con nuôi.
Ngày đêm may vá kiếm tiền,
Trước nuôi cha mẹ, sau tuyền đạo con.
Sự phụng dưỡng không đòi hỏi phải cao sang. Cung cách phụng dưỡng mới nói lên được lòng hiếu thảo:
Anh đi vắng cửa vắng nhà,
Giường loan gối quế, mẹ già ai nuôi!
Cá rô anh chặt bỏ đuôi,
Tôm càng bóc vỏ, anh nuôi mẹ già.
Ba tiền một khứa cá buôi,
Cũng mua cho được mà nuôi mẹ già.
Người Huế có thêm một cách phụng dưỡng rất địa phương:
Tôm rằn lột vỏ, bỏ đuôi,
Gạo de An Cựu mà nuôi mẹ già.
Con cái ăn gì thì cha mẹ già ăn thứ đó, không đòi hỏi phải cao sang. Với gia đình bình dân thì cơm với cá là món ăn căn bản cho cha mẹ. Nếu có một chút hy sinh quyền lợi căn bản của chính mình, như nhịn phần cơm của mình để nuôi cha mẹ, thì lòng hiếu mới trọn vẹn.
Đói lòng ăn hột chà là,
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
Đói lòng ăn trái ổi non,
Nhịn cơm nuôi mẹ, cho tròn nghĩa xưa.
Ngày nay chúng ta vẫn còn tiết kiệm từng miếng ăn, từng mảnh áo, để có ít tiền gởi về cho cha mẹ ở nơi xa. Đáng kính thay lòng hiếu thảo của người con Việt Nam.
Lòng hiếu của người bình dân thiết tha, đậm đà và thực tế hơn cảnh cắt thịt của mình cho cha mẹ ăn, hay ôm gốc măng mà khóc như trong Nhị Thập Tứ Hiếu của Nho gia.
Nếu phải xa nhà vì công việc làm ăn, người chồng dặn dò người vợ trẻ một vài phương cách phụng dưỡng mẹ già thay mình.
Liệu mà thờ kính mẹ già,
Đừng tiếng nặng nhẹ, người ta chê cười.
Dù no dù đói cho tươi,
Khoan ăn bớt ngủ, liệu bài lo toan.
4. Hiếu là thành đạt:
Thành công trong công việc làm ăn, đạt được công danh qua việc học hành thi cử cũng là một hình thức báo hiếu, tức là làm rạng rỡ danh giá tổ tiên, nhưng cũng là phương cách có nhiều tiền để giúp cho việc phụng dưỡng mẹ cha được chu đáo hơn, mới gọi là đền ơn cha mẹ cho tròn chữ hiếu.
Ngó lên trời, trời cao lồng lộng,
Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông.
Biết răng chừ cá gáy hóa rồng,
Đền ơn thầy mẹ ẵm bồng ngày xưa.
Quan niệm này vẫn còn ảnh hưởng đến chúng ta cho đến ngày nay. Nhiều phụ huynh đã khuyến khích, đã hy sinh tốn kém cho con cái học xong bốn năm Đại Học. Phần lớn con em chúng ta đạt được cấp bằng Tiến Sĩ, Cử Nhân đủ mọi ngành. Đó là thành quả đẹp, khởi đi từ lời ca văng vẳng từ ngàn xưa:
Con ơi muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Gái thời dệt gấm thêu hoa,
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa.
Trai thời đọc sách ngâm thơ,
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.
Mai sau nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân.
Cần cù chăm chỉ cấy cày cũng là hiếu, vì hoa màu thu hoạch lại được dùng trong việc phụng dưỡng mẹ cha:
Em thì đi cấy ruộng bông,
Anh đi cắt lúa để chung một nhà.
Đem về phụng dưỡng mẹ cha,
Muôn đời tiếng hiếu người ta còn truyền.
Làm ăn được mùa cũng dễ dàng thực hiện lòng hiếu thảo:
Trời cho cày cấy đầy đồng,
Xứ nào xứ ấy trong lòng vui ghê.
Một mai gặt lúa mang về,
Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung.
5. Hiếu là biết phụng thờ tổ tiên
Trứng rồng lại nở ra rồng
Hạt thông lại nở cây thông rườm rà.
Có cha có mẹ mới có ta,
Làm nên thời bởi mẹ cha vun trồng.
Khôn ngoan nhờ đức cha ông,
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ.
Đạo làm con chớ hững hờ:
Phải đem chữ hiếu mà thờ từ nghiêm.
Thờ, ngày xưa còn có nghĩa là phụng dưỡng cha mẹ với lòng tôn kính. Ngày nay thờ mang nặng ý nghĩa tôn giáo, chỉ dành cho người quá cố.
Ngó lên trời thấy cặp cu đang đá
Ngó ra ngoài biển thấy cặp cá đương đua
Đi về lập miễu thờ vua,
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.
Đó là những lời ca mẹ ru con ngủ. Nghe mãi nghe hoài con trẻ cũng nhớ vào lòng. Lập trang ở trong nhà để được giữ hình ảnh mẹ bên cạnh. Còn cha thì thờ ở chùa là nơi công cộng trong xóm làng, nơi làm sáng danh gia đình với xã hội.
Người Việt đi đâu cũng mang theo gia đình. Ngày trước khi di cư vào Nam, chúng ta mang theo cả gia đình. Ngày nay di tản ra hải ngoại, chúng ta không chỉ mang theo vợ chồng con cái, mà còn mang theo cả ông bà, cha mẹ.
Thờ cha mẹ, ở hết lòng,
Ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường.
Phụ mẫu bên anh cũng như phụ mẫu bên nàng,
Lẽ thường anh cũng phải tạc đá bia vàng để thờ chung.
Một điểm đặc biệt trong văn hóa gia đình Việt Nam là con rể hay con dâu đều gọi cha mẹ chồng hay cha mẹ vợ là cha mẹ. Cha mẹ hai bên là tứ thân phụ mẫu. Xem dó là liên hệ trực tiếp trong gia đình. Cha mẹ chồng, cha mẹ vợ đều được gọi là cha mẹ, cùng một từ như cha mẹ ruột. Cha mẹ gọi con dâu hay con gái với một từ chung là con. Từ con do cha mẹ gọi ra không có sự phân biệt con trai hay con rể. Việc gọi chung từ con, cha, mẹ không thể là sự ngẫu nhiên của ngôn ngữ, mà là một điểm son của văn hóa gia đình. Việt Nam rất giàu từ ngữ để chỉ sự khác biệt về sự liên hệ gia đình gián tiếp như: nội-ngoại, bác-bác, chú-thím, cậu-mợ, cô-dượng, dì-dượng, anh-chị...
Thực tế có sự khác biệt về tình cảm và huyết tộc giữa cha mẹ ruột với cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ, nhưng tập tục và đời sống khi thực hành chữ hiếu đã nâng tứ thân phụ mẫu ngang hàng với nhau:
Phụ mẫu thiếp cũng như phụ mẫu chàng,
Hai bên phụ mẫu tạc bốn chữ vàng thờ chung.
Ngay cả khi vợ chồng xa nhau rồi, lòng hiếu với cha mẹ đôi bên cũng không hề thay đổi. Đáng cảm phục thay tình gia đình của người bình dân Việt Nam.
Phụ mẫu tình thâm,
Phu thê nhân ngãi trọng,
Một mai anh có xa em rồi, em thờ vọng mẹ cha.
Anh đi ghe cá cao cờ,
Ai nuôi cha mẹ, ai thờ tổ tiên?
Phụng thờ tổ tiên là điểm đặc biệt của văn hóa Việt Nam. Người bình dân sống tự nhiên thoải mái với việc cầu Trời và thờ Ông bà tổ tiên của mình. Xem việc phụng thờ ông bà tổ tiên là lối sống tự nhiên, là một phương cách biểu lộ lòng hiếu thảo với cha mẹ. Khi cha mẹ, ông bà đã qua đời, hiếu được bày tỏ qua sự tôn kính phụng thờ:
Công danh hai chữ tờ mờ,
Lãy gì khuya sớm phụng thờ tổ tiên.
Khi cha mẹ già yếu thường ở chung với con cái. Khi cha mẹ ốm đau con cái tự tay săn sóc. Khi cha mẹ lâm chung con cái thường gần gũi bên cạnh. Nếu không được như vậy thì ít nhất cũng phải chịu tang. Kim Trọng từ giã Thúy Kiều để về thọ tang cha, Nguyễn Đình Chiểu bỏ thi để về chịu tang mẹ.
Chữ rằng: vấn tổ tầm tông,
Cháu con nỡ bỏ cha ông sao đành.
Đau xót nhất là sự chia xa đôi ngả âm dương. Chúng ta từng biết nhiều bài điếu văn xót xa thắm thía giữa người ở lại khóc kẻ ra đi. Trong văn-chương bình dân cũng có vài bài văn tế. Đặc biệt nhất là bài ca dao tế mẹ: lời lẽ thiết tha, ý tình thống thiết:
Trời hỡi Trời ! Sao dời vật đổi.
Nên chi cỏ héo hoa sầu!
Kể từ ngày nương tựa lều tranh
Công ơn mẹ kể không xiết kể!
Tuần cay đắng chín trăng có lẻ
Chữ sinh thành nghĩa mẹ tày non
Bên ướt mẹ nằm bên ráo phần con.
Mẹ nuôi con vuông tròn khôn lớn
Cho con xin đền miếng ngọt mùi ngon.
Nào hay đâu bóng xế đầu non
Trong phút chốc đã phân chia đôi ngả!
Đêm năm canh nghe con ve kêu giục giã
Ngày sáu khắc nhìn đèn hắt hiu!
Con đương mơ màng, sực tiếng mẹ kêu
Muốn tìm mẹ, tìm sao đặng mẹ?
Ba tấc đất, táng an theo lệ
Tấm lòng thành chưa thỏa lòng con.
Chốn mộ phần con gởi nước non
Một chén rượu ngọt, giã từ thân mẹ.
Ô hô! Ai tai! Phục duy thượng hưởng!
Xa đồng mà không trông thấy! U hu!
Mai đà hạc lánh hình du
Tây phương đất Phật, mẹ đi không về!
Mồ yên mả đẹp cũng là một hình thức báo hiếu. Điều này vẫn còn ở trong lòng những người con phải đi lập nghiệp phương xa. Khi điều kiện kinh tế cho phép, một trong những việc hiếu đầu tiên là chỉnh trang nhà thờ và lăng mộ tổ tiên.
Ơn cha ba năm tình thâm lai láng,
Nghĩa mẹ đậm đà chín tháng cưu mang.
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn.
Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn,
Đôi đứa ta lên non xắn đá, xuống xây lăng phụng thờ.
Việc kỵ giỗ, chú trọng đến lòng kính mến nhớ thương. Bàn thờ lạnh tanh, không hương khói ấm cúng, là điều đau lòng cho con cái.
Ngó lên nhang tắt, đèn mờ,
Mẫu thân đâu vắng, bàn thờ lạnh tanh.
Ngay cả cổ bàn khi kỵ giỗ cũng đơn giản thôi. Đó là những món ăn thân thiết, bình dị, dân dã trong đời sống hằng ngày như rau muống, nước tương mà cô thôn nữ đã dùng để phụng dưỡng cha mẹ già.
Nhà em có vại cà đầy,
Có ao rau muống, có đầy chum tương.
Dù không mỹ vị cao lương,
Trên thờ cha mẹ, dưới nhường anh em.
Một nhà vui vẻ êm đềm,
Đói no tùy cảnh, không thèm lụy ai.
Chỉ những người giàu sang, mới có cổ bàn đầy xôi thịt:
Cồng cộc bắt cá dưới bàu,
Cha mẹ mày giàu, đám giỗ đầu heo.
Trong việc thờ phụng hiếu với mẹ cha được xem trọng hơn là nghĩa vợ chồng:
Anh chết ba năm sống lại một giờ,
Để xem người ngọc phụng thờ ra sao?
Thờ chàng đĩa muối đĩa rau,
Thờ cha kính mẹ mâm cao cỗ đầy.
Kỵ giỗ là một phương cách tuyệt vời để duy trì và phát huy tinh thần gia tộc. Trong mùi trầm hương lâng lâng ngào ngạt của một lễ giỗ rất dễ cho ta nhận ra tinh thần ông bà tổ tiên hiện hữu qua hình dạng, qua phong cách của chúng ta và của đám con cháu đang quây quần trước bàn thờ. Vì tính cách nhân bản và thiết hực của việc thờ cúng ông bà tổ tiên, mà các tôn giáo khi du nhập vào Việt Nam đã dễ dàng hòa đồng với niền tin này. Nho, Thích, Lão đã được thờ chung với ông bà tổ tiên. Gần đây giáo quyền Công giáo đã có tông thư để giáo hữu tham dự hay tổ chức lễ giỗ ông bà tổ tiên. Dù theo tôn giáo nào, người Việt Nam cũng giữ việc thờ kính tổ tiên.
6. Phân vân giữa hiếu và tình
Đã có nhiều thiếu nữ quyết định không lập gia đình riêng vì muốn gần gũi cha mẹ để lo tròn chữ hiếu. Thay cha mẹ để nuôi dưỡng em út cũng là một cách thực hành chữ hiếu. Cũng có nhiều người chị cả không chịu lấy chồng, ở vậy để nuôi nấng đàn em khi mẹ cha không may đã qua đời quá sớm.
Ơn hoài thai như biển,
Ngãi dưỡng dục, tợ sông.
Em nguyền ở vậy phòng không,
Lo đàng cha mẹ cho hết lòng phận con.
Ơn mẹ như biển, nghĩa cha như sông. Biển bao la rông lớn hơn sông. Ơn mẹ thật sự lớn hơn nghĩa cha.
Niềm kim thạch, nghĩa cù lao,
Bên tình bên hiếu, ở sao cho tuyền.
Con trai mới lớn, còn ở với mẹ cha đôi khi gặp khó khăn giữa việc: hiếu với mẹ cha hay trọn tình với người yêu:
Chim kêu ải Bắc, non Tần,
Nửa phần thương mẹ, nửa phần thương em?
Thì người con gái thường giúp cho người yêu hoàn thành chữ hiếu để giữ trọn chữ tình:
Anh đà có vợ hay chưa,
Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào?
Mẹ già anh ở nơi nao?
Để em tìm vào hầu hạ thay anh.
Người con trai muốn sống trọn hiếu và tình, thường đặt câu hỏi với người yêu để thay cho lời trần tình, hay lời cầu xin:
Đèo nào cao cho bằng đèo Châu Đốc,
Đất nào dốc cho bằng đất Nam Vang.
Một tiếng em than: hai hàng lụy nhỏ,
Anh có mẹ già biết bỏ ai nuôi.
Nước chảy xuôi, con cá buôi lội ngược,
Anh muốn thương nàng, biết được hay không?
Các nàng này thực tế và khôn ngoan, biết rằng con trai khi đã hiếu với mẹ thì thường yêu thương và chung tình với vợ, nên các nàng không ngần ngại trả lời:
Mẹ già là mẹ già chung,
Anh lo thang thuốc, em giùm cháo cơm.
Mẹ già hai đứa nuôi chung,
Đứa lo cơm cháo, đứa giùm thuốc thang.
Tự lực văn đoàn với chủ trương ‘hoàn toàn theo mới’ đã nặng tay đả kích cảnh mẹ chồng nàng dâu của ảnh hưởng Nho giáo, mà bỏ qua những tình hiếu đẹp đẽ của nàng dâu và mẹ chồng trong nếp sống bình dân.
Trong ca dao tình và hiếu giao hòa với nhau, tạo nên tình gia đình trìu mến hạnh phúc. Nhiều thiếu nữ cũng gặp khó khăn trên. Họ đòi hỏi người yêu phải thông cảm:
Chàng ơi: ơn thầy ba năm cúc dục,
Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang.
Ai đền ơn cho thiếp,
Mà nhủ thiếp trao ân tình.
Chẳng lo thân bậu với qua,
Lo chút mẹ già đầu bạc tuổi cao.
Chim còn mến cội mến cành,
Anh cũng biết cho em
Còn mến nghĩa sinh thành của mẹ cha.
Cho đến ngày cưới, người con gái thích thưa trình và tạ ơn cha mẹ trong khuông phép lễ nghi của gia đình.
Con lạy cha hai lạy một quỳ,
Lạy mẹ bốn lạy, con đi lấy chồng.
Nếu có người con gái nhẹ dạ theo chàng, nàng phân vân đặt câu hỏi cho chính mình hay cho chàng:
Nhớ hồi mẹ đẻ thiếp ra,
Nhai cơm sún nước, lớn mà chừng ni.
Nghe lời chàng, bỏ mẹ ra đi,
Thất hiếu với phụ mẫu,
Có hề chi không, hỡi chàng?
thì người thanh niên cũng nhẹ nhàng khuyên nhủ người yêu hãy lo công cha nghĩa mẹ trước:
Công cha nghĩa mẹ ai đền,
Mà em ôm áo, ôm mền theo anh?
Với người con gái chữ hiếu thường nặng hơn chữ tình:
Công sinh dục bằng công tạo hóa,
Có mẹ cha, sau mới có chồng.
Em nhớ khi dìu dắt ẵm bồng,
Nay em lao khổ não nùng, không than.
Nếu tình duyên trắc trở, thì phụng dưỡng mẹ già cũng là một phương cách giải quyết tốt đẹp:
Nên thì lập kiểng trồng hoa,
Chẳng nên đá kiểng trồng cà dái dê.
Chẳng nên thiếp trở lộn về,
Dưỡng nuôi từ mẫu trọn bề hiếu trung.
7. Hiếu và bỏ nhà đi tu
Đi tu đối với người bình dân là cắt đứt mọi liên lụy tình cảm, trong đó có tình gia đình. Điều này không được chấp nhận. Đối với họ: hiếu cũng là tu. Đạo hiếu thực tế hơn.
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu.
Hiếu là đạo sống của người bình dân Việt Nam. Nếu phải lựa chọn, chắc chắn người con có hiếu sẽ chọn việc đền đáp công ơn mẹ trước khi bỏ nhà lên chùa với Phật.
Lên chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền.
Chính giáo lý nhà Phật cũng quan niệm: cha mẹ ở nhà như là Phật ở trần thế:
Có hai Phật sống trong nhà:
Sớm hôm lễ niệm đi xa đâu cần.
Hoặc mạnh dạn và rõ ràng hơn:
Cha già là Phật Thích Ca,
Mẹ già đích thị Phật Bà Quan Âm.
Nếu phải lo tròn chữ hiếu rồi mới được vào chùa, thì việc tu hành sẽ khó đạt được với người con có lời cầu xin cha mẹ sống đời với con:
Đêm đêm thắp ngọn đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con
Và như vậy, dù cha mẹ không sống đời với con thì trách nhiệm với cha mẹ cũng còn mãi cho đến ngày để chế mang tang cho cha mẹ:
Một mai bóng xế cội tùng,
Mũ rơm ai đội, áo thùng ai mang.
Và nếu đã đi tu rồi, thì cũng khó tránh được miệng tiếng của thế gian:
Tiểu kia đến ở chùa ta,
Một là giận mẹ, hai là giận thân.
Đêm nằm mà nghĩ xa gần,
Con người như thế đem thân ở chùa.
Ở chùa ăn những tương chua,
Ăn rau muống héo, ăn dưa cần già.
Sao không nghĩ đến cửa nhà,
Bát cơm manh áo, mẹ già ai nuôi?
Có suy nghĩ xa gần đó, nhưng vẫn thấy việc lo bát cơm manh áo cho mẹ già là quan trọng hơn, là đáng làm trước khi đem thân ở chùa.
Chúng ta phải nể phục người bình dân trong việc hội nhập giáo lý Phật giáo vào văn hóa dân tộc.
8. Một triết lý dân tộc Việt trong ca dao
Trên đây chúng tôi chỉ sưu tập và trình bày sơ lược một số câu ca dao theo chủ đề chữ hiếu, chưa đến lúc đi sâu vào nội dung từng bài để tổng hợp rồi trình bày như là một quan điểm triết lý cho đời sống của người bình dân Việt Nam. Thật ra người bình dân không cần những điều mà tôi muốn làm. Họ chỉ cần những bài ca để ru con. Những bài ca chan chứa tình người, tình gia đình. Họ hát lên như một lối trình bày, như một lời cầu mong, như một sự gởi gắm. Họ mong rằng con cháu nghe qua, tự rút ra cho mình những tình cảm, những phương cách sống về sự liên hệ giữa con cái với cha mẹ, ông bà.
Nhưng không phải vì sự bình dị, đơn giản của người bình dân mà chúng ta lại cho rằng người Việt Nam không có một nền triết học dân tộc như của Tàu, của Tây. Họ có đó, nhưng muốn hiểu được triết lý của họ, chúng ta phải trở về với họ bằng tâm tình, bằng hồn dân tộc, hơn là bằng khoa học lý trí. Tôi cảm thấy không vui lúc biết các cụ đồ Nho đùa-bỡn văn-học bình-dân bằng câu: Nôm na là cha mách qué, Mách qué là mẹ nôm na.
Ngày nay chủ thuyết vô gia đình và tự do cá nhân đã đưa đến cảnh: con phê phán mẹ cha, hoặc thoát ly gia đình quá sớm. Cả hai chủ thuyết trên đã làm tan rã gia-đình, gây nhiều khó khăn cho đời sống của con cái và làm lung lay lòng hiếu thảo của người Việt Nam.
Nguyễn Văn Mỹ