Thơ Sáu Trọng là một truyện thơ dân gian được lưu truyền rộng rãi ở Nam bộ vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và được in thành sách lần đầu tiên khoảng năm 1905. Đến năm 1916, tác phẩm này được tái bản đến lần thứ 6, dù luôn gặp phải sự cấm đoán gắt gao của nhà đương cục. Bản in năm 1916 của nhà in Bảo Tồn do nhà báo Nguyễn Kim Đính sưu tầm có độ dài 672 câu lục bát và hai lá thơ Sáu Trọng gởi cho bà con cô bác, một lá dài 34 câu, lá còn lại 62 câu. Song song đó, qua quá trình thực tế điền dã, chúng tôi bổ sung thêm cho mình được ba dị bản khác của truyện thơ này vẫn đang được lưu truyền trong dân gian. Truyện thơ kể lại cuộc đời anh chàng Sáu Trọng vốn bỏ nhà đi hoang từ bé. Đến năm 15 tuổi, Sáu Trọng trở về thăm quê, gặp và cưới Hai Đẩu làm vợ. Hai người đưa nhau về Sài Gòn sinh sống. Sau đó, Hai Đẩu ngoại tình khiến Sáu Trọng thất chí bỏ đi. Càng ngày Đẩu càng dấn sâu vào con đường tội lỗi. Cô ta lấy anh chồng Ký lục người Pháp và cùng chồng thuyên chuyển về Trà Vinh. Sáu Trọng tìm về Trà Vinh mong răn dạy vợ nhưng bị vợ vu oan khiến anh phải ngồi tù ba tháng. Ra tù, trở về Sài Gòn mới hay Đẩu mướn tay anh chị giết mình, Sáu Trọng lại quay về Trà Vinh giết chết người vợ phản bội, rồi tự nạp mình để chịu án chém.
Cả hai nhân vật chính trong truyện thơ cuối cùng đều mất mạng. Nhưng đọc xong, người đọc cứ mãi suy nghĩ không dứt ra được về cái nguyên nhân đã xô đẩy hai cuộc đời vốn xuất thân ngay trong giới bình dân ấy đi đến cái chết. Đó chính là chế độ thực dân và một cơ cấu xã hội khuyến khích lối sống thực dụng, coi đồng tiền là thước đo giá trị cuộc sống, sẵn sàng chà đạp, phá hoại các giá trị đạo đức truyền thống, từng bước chi phối nếp suy nghĩ, nếp sống từng cá nhân, từng gia đình và cả cộng đồng xã hội. Giá trị của tác phẩm chính là ở chỗ đó.
Ngay từ câu đầu tiên – “Kỷ vì thọ Pháp tân trào” – tác giả truyện thơ, một người bình dân nào đó ở Trà Vinh, đã khẳng định, đã vạch mặt chỉ tên ngay cái nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính là sự có mặt của chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta. Chính chế độ ấy đã làm cơ cấu xã hội truyền thống với nếp sống truyền thống, với những giá trị đạo đức truyền thống từng bước bị đổ vỡ. Để phục vụ cho bộ máy cai trị, một số người nhanh chân nhảy ra cộng tác với nhà cầm quyền, trở thành những thầy Thông, thầy Ký, thầy Cai, thầy Đội… Đứng trên đỉnh quyền lực của chế độ mới là những tên thực dân mắt xanh mũi lõ trực tiếp cai trị xã hội, trực tiếp nắm quyền sinh sát đối với vận mạng người dân, vận mạng cả dân tộc Việt Nam.
Để phục dịch cho bọn quan lại và cũng để bảo đảm an ninh trật tự xã hội, đàn áp những cuộc nổi dậy của nhân dân ta, ngoài đội quân viễn chinh, thực dân Pháp gom bắt thanh niên trai tráng trong làng, phiên chế vào các sắc lính khố xanh, khố đỏ, lính tập, cảnh sát… Một nghề mới được hình thành, đó là nghề đi lính cầm súng ăn lương. Tất nhiên, cộng tác với chế độ cướp nước, nhất là trực tiếp cầm súng, trong mắt người dân đương thời, họ là Việt gian phản quốc nhưng không ít trong số đó thực ra cũng vì chuyện chén cơn manh áo. Trong truyện thơ Sáu Trọng, tầng lớp này xuất hiện dưới dạng các thầy Cai, thầy Đội, mã tà:
“Mã tà, lính tập đôi bên
Đội cai súng ống trang nghiêm trong ngoài”
“Du nhàn thành thị sớm trưa
Có chàng Sáu Trọng tuổi vừa mười lăm”
“Có cô Hai Đẩu ở gần
Bán buôn chè cháo tảo tần nuôi cha”
“Con đi xa cách đường xa
Chạnh lòng thương má với ba quá chừng
Vợ chồng lão thợ rưng rưng…”
“Thua buồn Trọng mới tính nhăn
Xuống ở tàu hãng nấu ăn dọn bàn”
…
Dọn bàn nghe nói thiệt hơn
Lấy năm đồng bạc cho em về tàu”
“Này đoạn con Đẩu tính xa
Gởi thơ Năm Tỵ vậy mà anh hay
Tôi giận thằng Trọng lắm thay
Xin anh giết nó để rày làm chi
Anh mà giết đặng một khi
Một trăm đồng bạc tức thì đền công”
“Thông ngôn nghe nói thiệt thà
Bẩm cùng Biện lý vậy mà đặng hay”
“Đẩu về ở với mẹ cha
Có chàng Ký lục Lang Sa phải lòng
Cậy dì Tư Đến mai dong
Hỏi con Hai Đẩu bằng lòng hay không?”
“Ký lục nghe nói ngẩn ngơ
Cầm cây súng lục muốn giơ bắn chàng”
...
Thầy Kiện vỗ ghế, đập bàn
Chân thời dậm đất hét vang những là”
“Tội này tuy đáng tử hình
Nhưng tao không chém lưu tình với mi”
Đáng lên án – và truyện thơ Sáu Trọng đã lên án khá gay gắt – là một bộ phận xã hội không giữ được mình, để cho tư cách đạo đức trượt dài trên con đường suy đồi. Họ sống bất chấp đạo đức, bất chấp luân thường đạo lý, bất chấp dư luận xạ hội. Hãy nghe nhân vật Tư Đến – người chuyên sống bằng nghề mai dong cho những cuộc hôn nhân dị chủng – cụ thể hóa đến lạnh lùng khi định giá bằng tiền chuyện tình duyên con người:
“Tư Đến nghe rõ nguồn cơn
Kêu thầy Ký lục mới đờn nhỏ to
Mai dong kiếm chuyện mà o
Bụng thầy thương nó muốn cho mấy đồng
Lễ nghi năm chục mới xong...”
“Con Đẩu lấy bạc mười đồng
Đem ra đáp nghĩa đền công ơn dì”
“Vợ chồng lão thợ rưng rưng
Rể con có ngỡi chạnh lòng ngẩn ngơ”
“Đẩu rằng: - Lòng khiến thương anh
Cháo chè dẫu lạnh cũng đành dạ tôi
Chẳng qua duyên nợ trời xui
Dầu cha mẹ giết, chết tôi cũng đành
Đẩu thề chứng cớ cao xanh
Nguyện cùng thiên địa lấy anh trọn đời”
“Đủ đồ vi kiến trong mình
Hai Đẩu ngoại tình lại lấy anh nuôi”
“Em là con gái thời xưa
Qua cưới năm chục có vừa ý không”
“Này đoạn con Đẩu tính xa
Gởi thơ Năm Tỵ vậy mà anh hay
Tôi giận thằng Trọng lắm thay
Xin anh giết nó để rày làm chi
Anh mà giết đặng một khi
Một trăm đồng bạc tức thì đền công”
“Có quan thầy kiện một khi
Ở đâu đi đến vậy thì không hay
Cùng thầy Ký lục ở ngoài
Ló trong túi áo một vài tờ săn
Thầy kiện vỗ ghế, đập bàn
Chân thời dậm đất hét vang những là
Quan tòa thôi mới thốt ra
- Tên này có tội luật ra chém đầu!”
“Chồng thời ở với Lang Sa
Dặn vợ ở nhà gìn giữ ngoài trong
Bạc lương một tháng mười đồng
Tiện tặn hết sức mới hòng đủ ăn
Hai Đẩu tính nết lăng xăng
Ăn trơn mặc trắng, nợ nần khó khăn
Thua buồn Trọng mới tính nhăng
Xuống tàu làm hãng nấu ăn dọn bàn
Một mình nấu dọn châu toàn
Tháng lương hai chục mới an việc nhà”
“Nghĩ lòng muốn giết cả hai
Song le chuốc oán gây thù mà chi
Thôi thì cũng đứng nam nhi
Anh nuôi lấy vợ vô nghì cả hai
Trọng buồn kiếm việc làm khuây
Bỏ đi Châu Đốc mấy ngày cho xa”
“Xóm giềng to nhỏ gần xa
Vợ mầy đi lấy Lang Sa đã rồi
Sáu Trọng nghe nói dầu sôi
Anh em can gián thôi thôi chớ hiềm”
“Nó là một đứa tội tù
Sài Gòn nổi tiếng bang bù mặt rô”
“Sáu Trọng nghe nói biết rồi
Nếu ta tới đó mạng thôi chẳng lành
Đi vô mới xứng hùng anh
Dẫu nó có bắn cũng đành dạ đây”
“Sáu Trọng mới nói một khi
Trả thù cho đặng thác thì cũng yên
Nói rồi vội vã đi liền
Xuống tàu trực chỉ thẳng miền Trà Vinh”
“Thật chàng tích giận đã lâu
Ngày nay nghe mắng xiết bao lửa hừng
Nói rồi xách mác lại gần
Chém chơi một nhát ngã lăn nằm dài
Tiếp theo một mác ngang tai
Thọc ngay một mác trúng ngay cửa đì”
“Anh em chẳng rõ chơn tình
Tôi làm tôi chịu dám khinh luật trời
Nói rồi tức tốc chơn dời
Xách mác vậy thời tới nạp cửa công”
“Tràn rao khắp chốn thị thành
Dẫn chàng Sáu Trọng hành hình một khi
Trọng rằng: -Từ giã cố tri
Anh em ở lại vĩnh vi trọn bề
Anh hùng sống ở thác về
Nên hư cũng tiếng theo lề lối xưa”
“Năm Tỵ giở thơ xem xong
Nực cười Hai Đẩu hai lòng bội phu
Hại chàng Sáu Trọng ở tù
Vậy mà trong dạ oán thù chưa nguôi
coi thơ tức giận một hồi
Lấy tiền không giết ai thời làm chi
Nói rồi quày quã ra đi
Kiếm thằng Sáu Trọng vậy thì cho hay”
…“Dọn bàn nước mắt hai hàng
Ai dè mắc phải mưu gian làm vầy
Anh em ta phải giăng tay
Lên tòa sanh tử chớ rày bỏ nhau”
…
…“Dọn bàn nghe nói hãi kinh
Đồng bang huynh đệ đồng tình nuôi nhau
Anh em lớn nhỏ lao xao
Cảm thương Sáu Trọng tù lao oan tình”
…
…“Dọn bàn mới nói lời này
Làm ơn há để trông rày trả ơn
Anh em tử tế thời hơn
Cùng nhau huynh đệ keo sơn đời đời”
Có một chi tiết khá lý thú trong truyện thơ Sáu Trọng cần nghiên cứu là tuy lên án khá gay gắt tư tưởng, quan niệm sống hưởng thụ, chạy theo đồng tiền, Âu hóa một cách mù quáng nhưng tác giả truyện thơ vẫn nhận ra và miêu tả một cách khá sinh động cái mà hôm nay chúng ta gọi là giao lưu văn hóa. Vượt qua những dị ứng ban đầu, những giá trị tinh hoa chân chính của cả hai nền văn hóa Đông – Tây đang từng bước có sự thẩm thấu, đối thoại tiếp nhận lẫn nhau. Nếu nói sự tiếp nhận của người dân bị trị trước sự du nhập của nền văn hóa Pháp là chiều xuôi thì, ở phía ngược lại, chính những người mang tư tưởng thực dân đi khai hóa xứ người lại bị chính nét đẹp của nền văn hóa bản xứ thuyết phục và họ bị ảnh hưởng lúc nào không hay. Trường hợp những quan tòa ở Trà Vinh dùng dằng không tuyên án chém trước khí khái tiết nghĩa của tội nhân Sáu Trọng là một ví dụ:
“Quan trên thôi mới xét ra
Cũng vì con Đẩu nó mà chẳng minh
Tội này tuy đáng tử hình
Song ta không chém lưu tình với mi”
“Bạc-đon, ông chớ phát-sê(1)
At-tăng mổ-rắc công-tê túc-xà(2)
A-quăng mết-trết của ta(3)
Rẽn-đia cả-xối lũy mà xổ-huê(4)
...
Cùng thầy Ký lục ở ngoài
Ló trong túi áo cũng vài tờ săn(5)
...
Trọng còn nói tiếng Lang Sa
Quan trên dạy chém, tôi mà mẹc-xi(6)”
__________________________
1. xin lỗi, ông chớ giận!
2. Để tôi thuật lại trước sau.
3. Trước đây nó là vợ của tôi.
4. Tôi không động tới nó mà nó bỏ đi.
5. vài tờ 100 đồng.
6. Tôi cám ơn!