Miền Nam Việt Nam là miền đất mới với lịch sử vài trăm năm so với đất Bắc “ngàn năm văn vật”. Các địa danh ở miền Bắc thường mang những tên Hán Việt như Thăng Long, Hà Nội, Lạng Sơn, Sơn Tây, Hòa Bình... Miền Trung có Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định... Miền Nam, nơi định cư của những người phải bỏ các xóm làng cũ từ miền ngoài vào khai quang để tìm cơ hội mới lập nghiệp, nên các địa danh do họ đặt tên có nhiều đặc thù, khác với các địa danh Trung Bắc.
Người Việt vào Nam khẩn hoang vẫn mang theo mình nền văn minh lúa nước nhiều đời của dân tộc. Tuy đất ở miền Nam vào thời bấy giờ còn rất hoang vu nhưng họ đã thấy đây là một vùng có tiềm năng trong tương lai về nông nghiệp, một “địa cuộc” tốt (“địa cuộc”, danh từ do Trịnh Hoài Đức viết đầu tiên trong Gia Định thành Thông chí).
Làng mạc lúc đầu thường được bố trí sao cho thích hợp với việc làm ruộng nước. Nghề làm ruộng là một việc chăm lo lúa không kể ngày đêm, giờ giấc. Vì thế nên nhà không thể cất xa thửa ruộng và cần phải có nước uống cho gia đình. Nơi tiện lợi nhất để chọn nơi cất nhà phải là nơi tương đối cao ráo. Giồng là những nơi đất cao được ưa chuộng để lập xóm làng. Nơi đây khi đào giếng lại có được nước ngọt để sinh sống. Nhìn trên bản đồ, giồng ở miền Nam là những lằn song song, hết giồng tới nước, dọc theo sông Tiền và sông Hậu. Địa danh các nơi đây đã được lưu truyền qua nhiều đời như Giồng ông Tố gần Sài Gòn, đất Ba Giồng trù phú miền Mỹ Tho, giồng Càng Long, giồng Cầu Kè, giồng Cầu Ngang, giồng Tiểu Cần, giồng Chùa Chim ở Trà Vinh, giồng Vũng Liêm, giồng Trôm ở Bến Tre, giồng Riềng ở Rạch Giá...
Vùng đất cao, nhỏ hơn giồng được gọi là gò, cũng được ưa chọn làm nơi cư ngụ như Gò Vấp gần Sài Gòn, gò Bắc Chiên trên con đường Sài Gòn lên Nam Vang, Gò Đen vùng Tân An quê hương của nhà cách mạng Nguyễn Văn Tạo, Gò Dưa gần Thủ Đức, Gò Lũy hay Gò Lữ vùng Cai Lậy, Gò Dầu Hạ gần Tây Ninh, Gò Quao, Gò Công...
Việc trao đổi hàng hóa, mua bán phẩm vật ở các nơi đông dân cư đưa đến hình thành các chợ. Sài Gòn được biết ngày xưa với danh xưng Chợ Bến Thành. Địa danh Sài Gòn có nhiều giả thuyết. Có thể do phiên âm của tiếng Prei-kor (rừng cây bông gòn) hoặc của tiếng Prei-Nokor (đô lâm hay hoàng lâm) vì đây có tư dinh của Phó vương Cao Miên. Một giả thuyết khác là năm 1778, người Minh hương còn sống sót sau khi quân Nguyễn Huệ tàn sát dân Cù lao Phố ở Biên Hòa họ phải rút về đây sống dọc kinh Tàu Hủ. Để ngăn nước họ đã xây bờ gạch cao dọc kinh. Bờ gạch này được họ gọi là Thày-ngòn (Đê ngạn). Người Pháp phiên âm ra Sài Gòn. Thêm một thuyết nữa là Sài Gòn có thể do phiên âm của Tây cống, nơi nhận cống lễ của các đời vua Cao Miên dâng cho vua Việt Nam. Khít bên Sài Gòn là Chợ Lớn với các tiệm buôn của người Hoa, Chợ Cũ Sài Gòn, Chợ Quán, Chợ Cầu Ông Lãnh, Chợ Rẫy, Chợ Bà Chiểu Gia Định, Chợ Bà Điểm, Chợ Bà Hom, Chợ Bà Quẹo..; Chợ Lách ở Vĩnh Long. Chợ Đệm ở Tân An quê của “hung thần” Nguyễn Văn Trấn người đã theo lịnh Trần Văn Giàu thủ tiêu bao nhà ái quốc miền Nam, Chợ Ông Văn, Chợ Gạo ở Mỹ Tho nơi các ghe lúa từ Lục Tỉnh tập trung xay ra gạo để đưa vào Chợ Lớn-Sài Gòn; Chợ Dinh gần Nha Mân...
Đồng bằng sông Cửu Long là nơi sông rạch chằng chịch nên các bến là nơi quan trọng để ghe thuyền có nơi thuận tiện trao đổi hàng hóa. Bến Nghé có thể là bến lớn đầu tiên trong Nam vì dân cố cựu vẫn gọi Bến Nghé là tên cũ của Sài Gòn. Ngoài ra còn bao nhiêu bến như Bến Tre hoặc Bến Tranh, Bến Lức ở Mỹ Tho. Thủ Dầu Một có Bến Cỏ. Biên Hòa có Bến Cá vùng Tân Triều, nơi sản xuất bưởi ổi danh tiếng, Bến Gỗ thuộc Biên Hòa quê hương của cố Trung Tướng Đỗ Cao Trí...
Một danh từ khác đặc biệt ở miền Nam là nơi các cửa sông rạch đổ ra các sông lớn hay sông cái, tên rạch thường mang chữ “cái” đứng đầu. Việc này có thể do chữ “ngã cái”, tức ngã đổ ra sông cái. Vì được gọi tắt nên gọn lại chỉ còn chữ cái?. Các nơi nổi tiếng gồm có: Cái Bè tỉnh Mỹ Tho với loại cam Cái Bè lớn và ngon thơm, Cái Mơn với cây trái nổi tiếng, Cái Nhum với Nhà Dòng Cái Nhum nơi đào tạo các Thầy giảng Thiên Chúa Giáo, Cái Nước ở Cà Mau, Cái Môn nơi đồn binh của Quản Trần Văn Thành án ngữ căn cứ chống Pháp ở Láng Linh, Cái Cối, Cái Lớn ở Rạch Giá, Cái Dầu thuộc Châu Đốc. Cái Sắn là vùng dinh điền rộng lớn miệt Rạch Giá. Cái Vồn thuộc Cần Thơ đã nổi tiếng một thời khi Tướng Hòa Hảo Năm Lửa đặt bản doanh nơi đây. Cái Tàu là con sông nối với sông Ông Đốc của Cà Mau. Vùng đất giữa hai con sông Cái Tàu và sông Ông Đốc cùng với bờ biển Vịnh Thái Lan tạo một thể hình tam giác tức vùng U Minh Hạ. Cái Tàu Thượng, Cái Tàu Hạ giữa Mỹ Thuận và Sa Đéc là hai con rạch khác với sông Cái Tàu ở Cà Mau. Riêng Cái Răng ở Cần Thơ là do từ tiếng Miên “kran”, loại lò nấu củi nắn bằng đất sét. Người Việt phát âm từ karan biến ra Cái Răng. Nơi đây người Thổ chuyên làm loại “cà ràng ông Táo” ở Xà Tón Tri Tôn chở ghe theo Sông Cái đến đậu nơi này để bán.
Giao thông đường thủy còn có các rạch nhỏ. Đây là đặc điểm của miền Hậu Giang. Rạch đưa nước từ các sông cái vào các ruộng lúa. Nước rạch chảy theo thủy triều chớ không chảy theo độ nghiêng của đất: nước lớn thì chảy từ sông cái vào ruộng, nước ròng thì từ ngọn rút ra sông. Từ Thốt Nốt lên chợ Long Xuyên trên khoảng đường 19 cây số có thể đếm đến 30 con rạch cắt ngang bờ sông Hậu! Tên các rạch thì nhiều vô số kể. Thường chỉ có người địa phương mới biết chắc các vị trí ngoại trừ các rạch danh tiếng trong lịch sử như Rạch Gầm là nơi Nguyễn Huệ đã tiêu diệt các hải thuyền của quân Xiêm. Tên rạch thường lấy tên các thảo mộc mọc theo rạch như Rạch Chanh, có khi còn được gọi là kinh Bà Bèo (Nơi đây toàn là bàu và bèo, dân chúng nói nhanh nên sau thành “bà bèo”. Thật ra theo các nghiên cứu, không có bà nào tên Bèo ở nơi này). Rạch Chanh còn có tên chữ nho là Đăng Giang với sự tích Nguyễn Ánh trên đường bị quân Nguyễn Huệ đuổi bắt phải cỡi lưng trâu vượt rạch vì nơi đây ngày xưa đầy cá sấu. Đời sau lại đặt truyền thuyết “vua nhờ cá sấu đưa qua sông” và đặt lò sứ bên Trung Hoa làm những bộ chén trà “Ngư Gia độ Hoàng Gia, Âm tinh ngộ đế tinh”! Rạch Chiết nối sông Đồng Nai qua sông Sài Gòn. Rạch Choại vùng Biên Hòa(choại là một loại mây dùng bện sáo). Rạch Lá vùng Gò Công, rạch Thốt Nốt vùng Thất Sơn, rạch Xoài Mút vùng Mỹ Tho, Rạch Giá tên dân giả của tỉnh Kiên Giang (giá là một loại cây tràm, bông trắng, ong hút mật làm ra loại sáp rất trắng. Loại sáp này ngày xưa phải nạp ra Huế gọi là “thuế bạch lạp”). Rạch Dừa ở Hà Tiên. Rạch Gỗ Đền vùng An Giang. Ngoài việc đặt tên rạch theo các loại cây, rạch nhiều khi được đặt tên theo các cơ cấu đất đai hay theo tên các nhân vật được biết tiếng. Đó là trường hợp như Rạch Sỏi ở Rạch Giá, Rạch Cát vùng Chợ Đệm nhưng tên Rạch Cát cũng còn thấy ở nhiều nơi như Rạch Cát ở Biên Hòa. Vùng Kiến Phong có con rạch tên ngộ nghĩnh là rạch Cái Thia. Biên Hòa có Rạch Lá Buông, Rạch Ông Lớn, Rạch Ông Nhỏ (chảy từ rạch Ông Lớn vô Chợ Lớn), Rạch Nước Lộn trổ ra vàm sông lớn Mô Xoài. Mỹ Tho có rạch Ông Hổ nơi chôn tổ tiên của Tả Quân Lê Văn Duyệt. Vùng Mộc Hóa còn có con kinh tên Kinh Ông Lớn nối liền kinh Lagrange ra sông Vàm Cỏ Tây. Ông Lớn đây là Thiên Hộ Dương anh hùng kháng Pháp. Rạch Thị Nghè ở Sài Gòn thời trước được gọi Rạch Bà Nghè. Bà tên Nguyễn Thị Khánh con của Thống Suất Nguyễn Cửu Vân. Bà đẹp duyên với một ông Nghè ở Thạnh Mỹ Tây thuộc mé bên kia rạch. Ông Nghè mỗi ngày phải lấy đò qua rạch nên bà ra công xây cầu cho ông đi làm việc. Cầu được gọi là cầu Bà Nghè, con rạch cũng được dân chúng gọi là rạch Bà Nghè. Người Pháp sau đặt tên là Thị Nghè. Có lẽ vì kị không dám kêu tên nên dân chỉ dùng chức tước. Trong thành phố Sa Đéc có rạch Ông Nhiêu là một chức quan. Vị này là cố của vợ tác giả bài viết này. Vì đất ở đây bị sụp lở từ Sông Tiền vào nên nay rạch Ông Nhiêu đã biến mất. Ở bờ phía Nam của sông Tiền tỉnh lỵ Sa Đéc có sông Sa Đéc với các rạch tên rất “Nam Kỳ” như rạch Nàng Hai, ngã ba Nước Xoáy, chợ Cồn, rạch Đất Sét... Một trong những sông quan trọng miền Cà Mau có tên Sông Ông Đốc, có thể là một chức tước thay vì là tên họ? Hai con rạch khác tỉnh Kiến Phong ở tả ngạn sông Tiền là Đốc Vàng Thượng và Đốc Vàng Hạ. Đốc Binh Vàng và Chưởng Binh Lễ đã toàn thắng liên quân Xiêm-Cao Miên ở Cù Hu năm 1837 nhưng cả hai đều tử trận! Đốc Vàng Hạ là nơi Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ đã bị Việt Minh ám hại năm 1946.
Nói về sông rạch phải kể đến vàm. Miền Nam có Vàm Cỏ là sông lớn chảy từ cửa Soài Rạp đến chợ Xà Bang mới chia thành hai nhánh Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Hà Tiên có Vàm Cậu. Long Xuyên có Vàm Cống. Ngọn rạch từ giữa rừng Sác ra sông Soài Rạp mang tên Vàm Sác. Vàm Nao là con sông ăn thông từ sông Tiền qua sông Hậu giữa Long Xuyên và Châu Đốc. Đây là nơi năm 1787, Nguyễn Ánh hội binh các Trấn để đánh Tây Sơn.
Sông Cửu Long là một sông dài trên 4000 cây số bắt nguồn từ Tây Tạng. Đến miền Nam sông Cửu Long chia làm hai nhánh sông Tiền và sông Hậu, trước khi đổ ra biển qua chín cửa. Bắt đầu là Cửa Tiểu là cửa thứ nhất kể từ Sài Gòn kể xuống. Đây là nhánh thứ nhất chảy ngang thành phố Mỹ Tho rồi đổ ra Nam Hải. Nhánh thứ hai sông Tiền đổ ra Cửa Đại. Các nhánh sông Tiền khác đổ ra biển gồm có cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên, cửa Ba Lai, cửa Cung Hầu (còn được gọi tên khác là cửa Cồn Ngao). Sông Hậu đổ ra Nam Hải bằng cửa Ba Thắc cạnh cù lao Dung, ở giữa hai bên là cửa Tranh Đề (còn có tên là Trấn Di) và cửa Định An. Ngoài chín cửa của sông Cửu Long còn các cửa khác như cửa Bãi Ngao hướng Nam tỉnh Vĩnh Long. Thượng Tân Thị có bài thơ:
Về phía Tây Nam lối 100 dặm có cửa Gành Hào là một nơi có nhiều thổ sản như mật ong, sáp trắng... và thủy sản cá cua rất dồi dào. Rạch Gành Hào là con sông hợp lưu với sông Ông Đốc chảy ngang Cà Mau để trổ ra Nam Hải. Cà Mau còn có Cửa Lớn một con sông bắt nguồn ở Đầm Dơi chảy ngang Năm Căn rồi đổ ra Nam Hải ở vàm Cửa Lớn. Một sông trùng tên Cửa Lớn khác của Cà Mau là con sông nối liền sông Bảy Háp và sông Tràm Chim và đổ ra eo biển Cà Mau. Vùng Cà Mau còn cửa Bồ Đề chảy ra Nam Hải và cửa Ông Đốc chảy ra Vịnh Thái Lan. Sông Ông Đốc trong lòng Cà Mau chia thành hai nhánh: một chảy ngược nối với rạch Cái Tàu đổ ra Vịnh Thái Lan, nhánh kia nối với sông Gành Hào chảy ra Nam Hải. Cửa Bồ Đề và cửa Ông Đốc là nơi các ghe, tàu từ Bắc Việt đổ bộ vũ khí, đạn dược để tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Các tàu này từ hải phận quốc tế chờ lúc thuận tiện, tránh né tàu tuần Hải Quân miền Nam để lén lút đổ bộ quân dụng. Vòng lên phía Bắc vịnh Thái Lan còn có cửa quan trọng khác là cửa biển Rạch Giá.
Ở miền Nam, ngoài các sông rạch phụ thuộc sông Cửu Long còn phải kể thêm các sông khác như sông Đồng Nai ở miền Đông. Đây là một sông lớn bắt nguồn từ Đồng Nai thượng với hai phụ lưu: sông Bé và sông La Ngà. Nước sông Đồng Nai vốn có tiếng là nước trong và ngọt (“Gạo Ba Thắt, nước Đồng Nai”). Vùng Biên Hòa, về hạ lưu sông Phước, hai sông Đông Giang và Tây Giang bị cù lao Cái Tắt chia hai. Đến chỗ hai sông này nhập lại, ông bà ngày xưa đặt cho cái tên ngộ nghĩnh là sông Chàng Hãng, tên chữ là Lan Vu Giang.
Giao thông đường thủy miền Nam do các sông rạch thiên nhiên còn được bổ túc với bao nhiêu kinh đào. Nhiều kinh đã được đào từ thời người Chân Lạp nhưng đã bị lấp cạn phần nào. Thời thuộc địa Pháp, với phương tiện cơ giới nên rất nhiều kinh đã được hoàn thành để nối các sông rạch cho thuận tiện ghe thuyền di chuyển và cũng để tháo nước phèn để thêm đất canh tác. Có một con kinh được Pháp đặt tên Kinh 4 bis (Kinh số 4 phụ), được dân chúng phiên âm thành Kinh Cát Bích hoặc Cát Bít! Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có công hoàn thành con kinh quan trọng ở Đồng Tháp là kinh Đồng Tiến. Thời nhà Nguyễn phải kể đến việc đào thành công con kinh chiến lược nối liền đường nước từ Châu Đốc ra cửa biển Hà Tiên. Phải mất 5 năm, từ 1819 đến 1824 mới đào xong. Ngoài việc giúp tiện lợi giao thông, con kinh còn để phân định biên giới giữa Việt Nam và Cam Bốt. Vua Minh mạng đã ban cho tên kinh là kinh Vĩnh Tế, tên của vợ công thần Thoại Ngọc Hầu.
Vì có nhiều sông ngòi nên một đặc điểm khác của miền Nam là có vô số cù lao và cồn trên sông. Các cù lao loại lớn bắt đầu từ miền Đông có Cù Lao Phố ở Biên Hòa. Đây là một cù lao trù phú danh tiếng chẳng những ở Việt Nam mà cả ở Đông Nam Á thời đàng cựu. Ghe tàu ngoại quốc tấp nập đến đây trao đổi hàng hóa. Trần Thượng Xuyên, Tổng Binh tỉnh Quảng Đông thời nhà Minh vì không thuần phục nhà Thanh nên đã dùng 50 chiến thuyền cùng bộ hạ và gia đình đến xin được tá túc với chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Tần (Hiền Vương) cho họ vào đây lập nghiệp. Trần Thượng Xuyên là người đã có tài và công xây dựng được trung tâm thương mại quan trọng này. Trong thời tranh chấp Nguyễn Ánh-Nguyễn Huệ, quân Nguyễn Huệ đã tàn sát cư dân ở đây, khiến những người sống sót phải di dân về thành lập khu Chợ Lớn phồn thịnh ngày nay. Trên các sông Tiền và sông Hậu, cù lao hay được nhắc tên là cù lao Giêng ở Long Xuyên. Nơi đây có cô nhi viện lâu đời do các dì phước phụ trách. Cù lao Đại Châu gồm có 5 làng là cù lao giữa cửa Tiểu và cửa Đại, còn có tên gọi là Trấn Hải Châu. Một cù lao lớn thuộc Sóc Trăng dài trên 35 dặm trên sông Hậu là cù lao Dung. Cù lao Minh giữa Cổ Chiên và Hàm Luông (Bến Tre), cù lao Năm Thôn là một trong vài cù lao lớn miền Lục Tỉnh. Các cù lao lớn nhỏ khác kể ra không siết. Tưởng chỉ nên kể thêm một cù lao đặc biệt trấn giữ mặt trước cho châu thành Mỹ Tho: đó là cù lao Rồng. Nơi đây trước kia là chỗ an trí các người mắc phải bịnh cùi. Miền Hậu Giang, nói đến cù lao phải kể đến cù lao Ông Chưởng, nơi Chưởng binh Nguyễn Hữu Cảnh bị bịnh nặng phải bỏ mình sau khi chiến thắng quân Chân Lạp của Nặc Thu năm 1699. Câu hát đưa em ở miền Nam đã đi vào văn hóa bình dân:
Người Việt vào Nam khẩn hoang vẫn mang theo mình nền văn minh lúa nước nhiều đời của dân tộc. Tuy đất ở miền Nam vào thời bấy giờ còn rất hoang vu nhưng họ đã thấy đây là một vùng có tiềm năng trong tương lai về nông nghiệp, một “địa cuộc” tốt (“địa cuộc”, danh từ do Trịnh Hoài Đức viết đầu tiên trong Gia Định thành Thông chí).
Làng mạc lúc đầu thường được bố trí sao cho thích hợp với việc làm ruộng nước. Nghề làm ruộng là một việc chăm lo lúa không kể ngày đêm, giờ giấc. Vì thế nên nhà không thể cất xa thửa ruộng và cần phải có nước uống cho gia đình. Nơi tiện lợi nhất để chọn nơi cất nhà phải là nơi tương đối cao ráo. Giồng là những nơi đất cao được ưa chuộng để lập xóm làng. Nơi đây khi đào giếng lại có được nước ngọt để sinh sống. Nhìn trên bản đồ, giồng ở miền Nam là những lằn song song, hết giồng tới nước, dọc theo sông Tiền và sông Hậu. Địa danh các nơi đây đã được lưu truyền qua nhiều đời như Giồng ông Tố gần Sài Gòn, đất Ba Giồng trù phú miền Mỹ Tho, giồng Càng Long, giồng Cầu Kè, giồng Cầu Ngang, giồng Tiểu Cần, giồng Chùa Chim ở Trà Vinh, giồng Vũng Liêm, giồng Trôm ở Bến Tre, giồng Riềng ở Rạch Giá...
Vùng đất cao, nhỏ hơn giồng được gọi là gò, cũng được ưa chọn làm nơi cư ngụ như Gò Vấp gần Sài Gòn, gò Bắc Chiên trên con đường Sài Gòn lên Nam Vang, Gò Đen vùng Tân An quê hương của nhà cách mạng Nguyễn Văn Tạo, Gò Dưa gần Thủ Đức, Gò Lũy hay Gò Lữ vùng Cai Lậy, Gò Dầu Hạ gần Tây Ninh, Gò Quao, Gò Công...
Việc trao đổi hàng hóa, mua bán phẩm vật ở các nơi đông dân cư đưa đến hình thành các chợ. Sài Gòn được biết ngày xưa với danh xưng Chợ Bến Thành. Địa danh Sài Gòn có nhiều giả thuyết. Có thể do phiên âm của tiếng Prei-kor (rừng cây bông gòn) hoặc của tiếng Prei-Nokor (đô lâm hay hoàng lâm) vì đây có tư dinh của Phó vương Cao Miên. Một giả thuyết khác là năm 1778, người Minh hương còn sống sót sau khi quân Nguyễn Huệ tàn sát dân Cù lao Phố ở Biên Hòa họ phải rút về đây sống dọc kinh Tàu Hủ. Để ngăn nước họ đã xây bờ gạch cao dọc kinh. Bờ gạch này được họ gọi là Thày-ngòn (Đê ngạn). Người Pháp phiên âm ra Sài Gòn. Thêm một thuyết nữa là Sài Gòn có thể do phiên âm của Tây cống, nơi nhận cống lễ của các đời vua Cao Miên dâng cho vua Việt Nam. Khít bên Sài Gòn là Chợ Lớn với các tiệm buôn của người Hoa, Chợ Cũ Sài Gòn, Chợ Quán, Chợ Cầu Ông Lãnh, Chợ Rẫy, Chợ Bà Chiểu Gia Định, Chợ Bà Điểm, Chợ Bà Hom, Chợ Bà Quẹo..; Chợ Lách ở Vĩnh Long. Chợ Đệm ở Tân An quê của “hung thần” Nguyễn Văn Trấn người đã theo lịnh Trần Văn Giàu thủ tiêu bao nhà ái quốc miền Nam, Chợ Ông Văn, Chợ Gạo ở Mỹ Tho nơi các ghe lúa từ Lục Tỉnh tập trung xay ra gạo để đưa vào Chợ Lớn-Sài Gòn; Chợ Dinh gần Nha Mân...
Đồng bằng sông Cửu Long là nơi sông rạch chằng chịch nên các bến là nơi quan trọng để ghe thuyền có nơi thuận tiện trao đổi hàng hóa. Bến Nghé có thể là bến lớn đầu tiên trong Nam vì dân cố cựu vẫn gọi Bến Nghé là tên cũ của Sài Gòn. Ngoài ra còn bao nhiêu bến như Bến Tre hoặc Bến Tranh, Bến Lức ở Mỹ Tho. Thủ Dầu Một có Bến Cỏ. Biên Hòa có Bến Cá vùng Tân Triều, nơi sản xuất bưởi ổi danh tiếng, Bến Gỗ thuộc Biên Hòa quê hương của cố Trung Tướng Đỗ Cao Trí...
Một danh từ khác đặc biệt ở miền Nam là nơi các cửa sông rạch đổ ra các sông lớn hay sông cái, tên rạch thường mang chữ “cái” đứng đầu. Việc này có thể do chữ “ngã cái”, tức ngã đổ ra sông cái. Vì được gọi tắt nên gọn lại chỉ còn chữ cái?. Các nơi nổi tiếng gồm có: Cái Bè tỉnh Mỹ Tho với loại cam Cái Bè lớn và ngon thơm, Cái Mơn với cây trái nổi tiếng, Cái Nhum với Nhà Dòng Cái Nhum nơi đào tạo các Thầy giảng Thiên Chúa Giáo, Cái Nước ở Cà Mau, Cái Môn nơi đồn binh của Quản Trần Văn Thành án ngữ căn cứ chống Pháp ở Láng Linh, Cái Cối, Cái Lớn ở Rạch Giá, Cái Dầu thuộc Châu Đốc. Cái Sắn là vùng dinh điền rộng lớn miệt Rạch Giá. Cái Vồn thuộc Cần Thơ đã nổi tiếng một thời khi Tướng Hòa Hảo Năm Lửa đặt bản doanh nơi đây. Cái Tàu là con sông nối với sông Ông Đốc của Cà Mau. Vùng đất giữa hai con sông Cái Tàu và sông Ông Đốc cùng với bờ biển Vịnh Thái Lan tạo một thể hình tam giác tức vùng U Minh Hạ. Cái Tàu Thượng, Cái Tàu Hạ giữa Mỹ Thuận và Sa Đéc là hai con rạch khác với sông Cái Tàu ở Cà Mau. Riêng Cái Răng ở Cần Thơ là do từ tiếng Miên “kran”, loại lò nấu củi nắn bằng đất sét. Người Việt phát âm từ karan biến ra Cái Răng. Nơi đây người Thổ chuyên làm loại “cà ràng ông Táo” ở Xà Tón Tri Tôn chở ghe theo Sông Cái đến đậu nơi này để bán.
Giao thông đường thủy còn có các rạch nhỏ. Đây là đặc điểm của miền Hậu Giang. Rạch đưa nước từ các sông cái vào các ruộng lúa. Nước rạch chảy theo thủy triều chớ không chảy theo độ nghiêng của đất: nước lớn thì chảy từ sông cái vào ruộng, nước ròng thì từ ngọn rút ra sông. Từ Thốt Nốt lên chợ Long Xuyên trên khoảng đường 19 cây số có thể đếm đến 30 con rạch cắt ngang bờ sông Hậu! Tên các rạch thì nhiều vô số kể. Thường chỉ có người địa phương mới biết chắc các vị trí ngoại trừ các rạch danh tiếng trong lịch sử như Rạch Gầm là nơi Nguyễn Huệ đã tiêu diệt các hải thuyền của quân Xiêm. Tên rạch thường lấy tên các thảo mộc mọc theo rạch như Rạch Chanh, có khi còn được gọi là kinh Bà Bèo (Nơi đây toàn là bàu và bèo, dân chúng nói nhanh nên sau thành “bà bèo”. Thật ra theo các nghiên cứu, không có bà nào tên Bèo ở nơi này). Rạch Chanh còn có tên chữ nho là Đăng Giang với sự tích Nguyễn Ánh trên đường bị quân Nguyễn Huệ đuổi bắt phải cỡi lưng trâu vượt rạch vì nơi đây ngày xưa đầy cá sấu. Đời sau lại đặt truyền thuyết “vua nhờ cá sấu đưa qua sông” và đặt lò sứ bên Trung Hoa làm những bộ chén trà “Ngư Gia độ Hoàng Gia, Âm tinh ngộ đế tinh”! Rạch Chiết nối sông Đồng Nai qua sông Sài Gòn. Rạch Choại vùng Biên Hòa(choại là một loại mây dùng bện sáo). Rạch Lá vùng Gò Công, rạch Thốt Nốt vùng Thất Sơn, rạch Xoài Mút vùng Mỹ Tho, Rạch Giá tên dân giả của tỉnh Kiên Giang (giá là một loại cây tràm, bông trắng, ong hút mật làm ra loại sáp rất trắng. Loại sáp này ngày xưa phải nạp ra Huế gọi là “thuế bạch lạp”). Rạch Dừa ở Hà Tiên. Rạch Gỗ Đền vùng An Giang. Ngoài việc đặt tên rạch theo các loại cây, rạch nhiều khi được đặt tên theo các cơ cấu đất đai hay theo tên các nhân vật được biết tiếng. Đó là trường hợp như Rạch Sỏi ở Rạch Giá, Rạch Cát vùng Chợ Đệm nhưng tên Rạch Cát cũng còn thấy ở nhiều nơi như Rạch Cát ở Biên Hòa. Vùng Kiến Phong có con rạch tên ngộ nghĩnh là rạch Cái Thia. Biên Hòa có Rạch Lá Buông, Rạch Ông Lớn, Rạch Ông Nhỏ (chảy từ rạch Ông Lớn vô Chợ Lớn), Rạch Nước Lộn trổ ra vàm sông lớn Mô Xoài. Mỹ Tho có rạch Ông Hổ nơi chôn tổ tiên của Tả Quân Lê Văn Duyệt. Vùng Mộc Hóa còn có con kinh tên Kinh Ông Lớn nối liền kinh Lagrange ra sông Vàm Cỏ Tây. Ông Lớn đây là Thiên Hộ Dương anh hùng kháng Pháp. Rạch Thị Nghè ở Sài Gòn thời trước được gọi Rạch Bà Nghè. Bà tên Nguyễn Thị Khánh con của Thống Suất Nguyễn Cửu Vân. Bà đẹp duyên với một ông Nghè ở Thạnh Mỹ Tây thuộc mé bên kia rạch. Ông Nghè mỗi ngày phải lấy đò qua rạch nên bà ra công xây cầu cho ông đi làm việc. Cầu được gọi là cầu Bà Nghè, con rạch cũng được dân chúng gọi là rạch Bà Nghè. Người Pháp sau đặt tên là Thị Nghè. Có lẽ vì kị không dám kêu tên nên dân chỉ dùng chức tước. Trong thành phố Sa Đéc có rạch Ông Nhiêu là một chức quan. Vị này là cố của vợ tác giả bài viết này. Vì đất ở đây bị sụp lở từ Sông Tiền vào nên nay rạch Ông Nhiêu đã biến mất. Ở bờ phía Nam của sông Tiền tỉnh lỵ Sa Đéc có sông Sa Đéc với các rạch tên rất “Nam Kỳ” như rạch Nàng Hai, ngã ba Nước Xoáy, chợ Cồn, rạch Đất Sét... Một trong những sông quan trọng miền Cà Mau có tên Sông Ông Đốc, có thể là một chức tước thay vì là tên họ? Hai con rạch khác tỉnh Kiến Phong ở tả ngạn sông Tiền là Đốc Vàng Thượng và Đốc Vàng Hạ. Đốc Binh Vàng và Chưởng Binh Lễ đã toàn thắng liên quân Xiêm-Cao Miên ở Cù Hu năm 1837 nhưng cả hai đều tử trận! Đốc Vàng Hạ là nơi Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ đã bị Việt Minh ám hại năm 1946.
Nói về sông rạch phải kể đến vàm. Miền Nam có Vàm Cỏ là sông lớn chảy từ cửa Soài Rạp đến chợ Xà Bang mới chia thành hai nhánh Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Hà Tiên có Vàm Cậu. Long Xuyên có Vàm Cống. Ngọn rạch từ giữa rừng Sác ra sông Soài Rạp mang tên Vàm Sác. Vàm Nao là con sông ăn thông từ sông Tiền qua sông Hậu giữa Long Xuyên và Châu Đốc. Đây là nơi năm 1787, Nguyễn Ánh hội binh các Trấn để đánh Tây Sơn.
Sông Cửu Long là một sông dài trên 4000 cây số bắt nguồn từ Tây Tạng. Đến miền Nam sông Cửu Long chia làm hai nhánh sông Tiền và sông Hậu, trước khi đổ ra biển qua chín cửa. Bắt đầu là Cửa Tiểu là cửa thứ nhất kể từ Sài Gòn kể xuống. Đây là nhánh thứ nhất chảy ngang thành phố Mỹ Tho rồi đổ ra Nam Hải. Nhánh thứ hai sông Tiền đổ ra Cửa Đại. Các nhánh sông Tiền khác đổ ra biển gồm có cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên, cửa Ba Lai, cửa Cung Hầu (còn được gọi tên khác là cửa Cồn Ngao). Sông Hậu đổ ra Nam Hải bằng cửa Ba Thắc cạnh cù lao Dung, ở giữa hai bên là cửa Tranh Đề (còn có tên là Trấn Di) và cửa Định An. Ngoài chín cửa của sông Cửu Long còn các cửa khác như cửa Bãi Ngao hướng Nam tỉnh Vĩnh Long. Thượng Tân Thị có bài thơ:
Đứng ngó quanh về phía Bãi Ngao,
Một trời, một biển, một cù lao...
Một trời, một biển, một cù lao...
Về phía Tây Nam lối 100 dặm có cửa Gành Hào là một nơi có nhiều thổ sản như mật ong, sáp trắng... và thủy sản cá cua rất dồi dào. Rạch Gành Hào là con sông hợp lưu với sông Ông Đốc chảy ngang Cà Mau để trổ ra Nam Hải. Cà Mau còn có Cửa Lớn một con sông bắt nguồn ở Đầm Dơi chảy ngang Năm Căn rồi đổ ra Nam Hải ở vàm Cửa Lớn. Một sông trùng tên Cửa Lớn khác của Cà Mau là con sông nối liền sông Bảy Háp và sông Tràm Chim và đổ ra eo biển Cà Mau. Vùng Cà Mau còn cửa Bồ Đề chảy ra Nam Hải và cửa Ông Đốc chảy ra Vịnh Thái Lan. Sông Ông Đốc trong lòng Cà Mau chia thành hai nhánh: một chảy ngược nối với rạch Cái Tàu đổ ra Vịnh Thái Lan, nhánh kia nối với sông Gành Hào chảy ra Nam Hải. Cửa Bồ Đề và cửa Ông Đốc là nơi các ghe, tàu từ Bắc Việt đổ bộ vũ khí, đạn dược để tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Các tàu này từ hải phận quốc tế chờ lúc thuận tiện, tránh né tàu tuần Hải Quân miền Nam để lén lút đổ bộ quân dụng. Vòng lên phía Bắc vịnh Thái Lan còn có cửa quan trọng khác là cửa biển Rạch Giá.
Ở miền Nam, ngoài các sông rạch phụ thuộc sông Cửu Long còn phải kể thêm các sông khác như sông Đồng Nai ở miền Đông. Đây là một sông lớn bắt nguồn từ Đồng Nai thượng với hai phụ lưu: sông Bé và sông La Ngà. Nước sông Đồng Nai vốn có tiếng là nước trong và ngọt (“Gạo Ba Thắt, nước Đồng Nai”). Vùng Biên Hòa, về hạ lưu sông Phước, hai sông Đông Giang và Tây Giang bị cù lao Cái Tắt chia hai. Đến chỗ hai sông này nhập lại, ông bà ngày xưa đặt cho cái tên ngộ nghĩnh là sông Chàng Hãng, tên chữ là Lan Vu Giang.
Giao thông đường thủy miền Nam do các sông rạch thiên nhiên còn được bổ túc với bao nhiêu kinh đào. Nhiều kinh đã được đào từ thời người Chân Lạp nhưng đã bị lấp cạn phần nào. Thời thuộc địa Pháp, với phương tiện cơ giới nên rất nhiều kinh đã được hoàn thành để nối các sông rạch cho thuận tiện ghe thuyền di chuyển và cũng để tháo nước phèn để thêm đất canh tác. Có một con kinh được Pháp đặt tên Kinh 4 bis (Kinh số 4 phụ), được dân chúng phiên âm thành Kinh Cát Bích hoặc Cát Bít! Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có công hoàn thành con kinh quan trọng ở Đồng Tháp là kinh Đồng Tiến. Thời nhà Nguyễn phải kể đến việc đào thành công con kinh chiến lược nối liền đường nước từ Châu Đốc ra cửa biển Hà Tiên. Phải mất 5 năm, từ 1819 đến 1824 mới đào xong. Ngoài việc giúp tiện lợi giao thông, con kinh còn để phân định biên giới giữa Việt Nam và Cam Bốt. Vua Minh mạng đã ban cho tên kinh là kinh Vĩnh Tế, tên của vợ công thần Thoại Ngọc Hầu.
Vì có nhiều sông ngòi nên một đặc điểm khác của miền Nam là có vô số cù lao và cồn trên sông. Các cù lao loại lớn bắt đầu từ miền Đông có Cù Lao Phố ở Biên Hòa. Đây là một cù lao trù phú danh tiếng chẳng những ở Việt Nam mà cả ở Đông Nam Á thời đàng cựu. Ghe tàu ngoại quốc tấp nập đến đây trao đổi hàng hóa. Trần Thượng Xuyên, Tổng Binh tỉnh Quảng Đông thời nhà Minh vì không thuần phục nhà Thanh nên đã dùng 50 chiến thuyền cùng bộ hạ và gia đình đến xin được tá túc với chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Tần (Hiền Vương) cho họ vào đây lập nghiệp. Trần Thượng Xuyên là người đã có tài và công xây dựng được trung tâm thương mại quan trọng này. Trong thời tranh chấp Nguyễn Ánh-Nguyễn Huệ, quân Nguyễn Huệ đã tàn sát cư dân ở đây, khiến những người sống sót phải di dân về thành lập khu Chợ Lớn phồn thịnh ngày nay. Trên các sông Tiền và sông Hậu, cù lao hay được nhắc tên là cù lao Giêng ở Long Xuyên. Nơi đây có cô nhi viện lâu đời do các dì phước phụ trách. Cù lao Đại Châu gồm có 5 làng là cù lao giữa cửa Tiểu và cửa Đại, còn có tên gọi là Trấn Hải Châu. Một cù lao lớn thuộc Sóc Trăng dài trên 35 dặm trên sông Hậu là cù lao Dung. Cù lao Minh giữa Cổ Chiên và Hàm Luông (Bến Tre), cù lao Năm Thôn là một trong vài cù lao lớn miền Lục Tỉnh. Các cù lao lớn nhỏ khác kể ra không siết. Tưởng chỉ nên kể thêm một cù lao đặc biệt trấn giữ mặt trước cho châu thành Mỹ Tho: đó là cù lao Rồng. Nơi đây trước kia là chỗ an trí các người mắc phải bịnh cùi. Miền Hậu Giang, nói đến cù lao phải kể đến cù lao Ông Chưởng, nơi Chưởng binh Nguyễn Hữu Cảnh bị bịnh nặng phải bỏ mình sau khi chiến thắng quân Chân Lạp của Nặc Thu năm 1699. Câu hát đưa em ở miền Nam đã đi vào văn hóa bình dân:
Bao phen quạ nói với diều:
Trên mặt biển các cù lao thường được gọi là hòn. Lớn nhất và có tiềm năng kinh tế rất quan trọng là hòn Phú Quốc, rộng 200 dặm từ Đông đến Tây. Ngoài việc sản xuất các thổ sản như tiêu, dừa... Phú Quốc còn được biết trên toàn quốc với loại nước mắm hòn thơm dịu. Vùng Hà Tiên còn có các hòn Dầu Rái, hòn Chông nơi có động gọi chùa Hang. Trong Chùa Hang có hai tượng Phật tạc từ thế kỷ thứ XIV. Từ hòn Chông trông ra biển còn có hòn Phụ Tử. Ngay cửa biển Rạch Giá có Hòn Tre châu vi 20 dặm. Ngang vàm sông Ông Đốc ngoài vịnh Thái Lan có hòn Đá Bạc, rộng độ một cây số vuông. Nơi hòn này Việt Minh đã xử tử nhà ái quốc Hồ Văn Ngà. Trước khi chết ông Ngà đã nói với phía Cộng Sản:
Phía Tây cách Mũi Cà Mau độ 10 cây số có Hòn Khoai (Poulo Obi). Nơi đây có một ngọn hải đăng và đặc biệt lại có nguồn nước ngọt. Các ghe từ Cà Mau thường ra đây để lấy nước chở về tiếp tế cho dân chúng. Ngoài khơi tỉnh Rạch Giá có hòn Sơn Rái (Tamassou) và quần đảo Cổ Tròn (Poulo Dama) là hai nơi các tàu tuần duyên Hải Quân thường ghé khi thủy thủ đoàn cần tạm nghỉ. Kể về các hòn, ngoài quần đảo Côn Sơn danh tiếng mọi người đều biết, không thể quên một hòn nằm xa nhất về phía Nam vịnh Thái Lan. Đó là hòn Thổ Châu (Poulo Panjang), diện tích trên 100 dặm. Các ghe của dân chài lưới thường đến đây và tùy theo hướng gió mùa, cập bến hoặc bên bờ Đông hay bờ Tây của đảo. Thời Việt Nam Cộng Hòa, Hải Quân thiết lập một căn cứ thường trực nơi đây. Trên núi còn có một ngôi cổ tự được các vị sư ẩn tu chăm sóc.
Giao thông đường bộ, đường sá ngày xưa thường không có đặt tên. Địa phương thường ghi các ngã đường bằng các loại cây đặc biệt như Ngã ba Cây Điệp, ngã ba Cây Quéo ở Gia Định, Ngã ba Cây Lơn ở Biên Hòa, Cây Mai với di tích Chùa cổ Cây Mai hay Chùa Gò vùng Phú Lâm, ngã Năm Bình Hòa ở Gia Định. Ngã Sáu Sài Gòn là nơi đặc điểm của sáu con đường giao nhau, khác với Ngã bảy Phụng Hiệp gần Cần Thơ là nơi xuất phát của bảy con kinh. Một vài khi, dân chúng lấy tên các nhân vật tiêu biểu để đánh dấu các ngã đường. Gần Sài Gòn có Ngã ba Ông Tạ, Ngã tư Bảy Hiền. Ở Gò Vấp, có một ngã ba mà ngày trước các quân nhân đều biết tiếng. Đó là Ngã ba Chú Ía, nơi cư trú của các cô gái giang hồ. Trên sông có một ngã ba được đời đời truyền tụng tức ngã ba Nhà Bè:
Ngày xưa các đường trong thị trấn không mang tên các nhân vật như ngày nay. Tỉnh lỵ Gia Định có các đường được dân chúng gọi theo các loại cây trồng: đường Hàng Bàng từ Cầu Bông đến Lăng Ông, đường Hàng Thị nơi có Kho Bạc và căn phố của ông Nguyễn An Ninh với tủ sách quý, đường Hàng Xanh từ Gia Định qua Thị Nghè với chùa Sư Muôn, đường Hàng Keo với cái bót mật thám Pháp giam các nhà ái quốc, đường Thốt Nốt gần Lăng Ông nơi có căn phố của Tạ Thu Thâu từng ở nhiều năm. Nhiều con đường khác sau này được đặt tên các nhân vật nhưng dân chúng vẫn dùng các tên xưa: đường Lò Heo Mới, đường Lò Heo Cũ, đường Nhà Thờ, bến Tắm Ngựa.
Miền Nam là vùng đồng bằng với rất nhiều sông rạch. Trái lại, núi non ở đây rất hiếm hoi. Ở mạn Đông Bắc mới có các núi nhỏ như Biên Hòa có núi Châu Thới cao độ 60 thước với chùa Hội Sơn trên đỉnh, núi Bửu Long, núi Đá Lửa, núi Đá Trắng...; núi Thị Vãi, núi Dinh vùng Bà Rịa; núi Lớn ở Vũng Tàu. Núi cao miền Đông chỉ có núi Chứa Chan (803 thước). Tây Ninh có núi Bà Đen, người Khơ Me gọi là yéay khmau (lão bà đen) một nữ thần gốc Thổ, được vua Gia Long phong “Linh Sơn Thánh Mẫu”. Về phía Tây, vùng Hà Tiên có vài núi nhỏ như núi Phù Dung, núi Địa Tạng, núi Đá Dựng, núi Mây (Vân Sơn). Chỉ có vùng Châu Đốc mới có dãy núi quan trọng là Thất Sơn hay Bảy Núi. Được biết nhiều nhất là Núi Sam, nơi có mộ phu nhân Thoại Ngọc Hầu, mộ Phật Thầy Tây An và miếu bà Chúa Xứ; núi Sập với đền thờ Thoại Ngọc Hầu. Núi Sập còn có tên Thoại Sơn, do triều đình Huế đặt để tưởng thưởng Thoại Ngọc Hầu, người có công đào cảng Đông Xuyên tức sông Ông Thoại và kinh Vĩnh Tế.
Tóm lại, trong khi ở miền Bắc hay Trung, các địa danh thường có những tên văn hoa thì ở miền Nam các địa danh lại có đặc tánh bình dân, mộc mạc. Chỉ trừ các nơi khi bắt đầu khai phá được các quan chức thời xưa đặt cho các tên văn chương Hán Việt như Biên Trấn, Gia Định, Tân An, Long Hồ... tên các nơi khác thường được dân chúng kêu trại ra từ các tên của hoặc Chàm, hoặc Khơ Me. Bắt đầu như Bà Rịa do tiếng Yéay Ria của Thổ tức lão bà hay mụ Ria. Châu Đốc theo người Khơ Me tên Mắt cruk và họ gọi đây là sóc Miệng heo. Sóc Trăng tên Khơ me là Păm prêk srok khlẳn (Péam: vàm; prêk: sông; srok: sốc; klẳn: kho bạc. Thời Khơ Me nơi đây có đặt một kho bạc). Đời Minh Mạng, tên chữ là Nguyệt Giang Tinh, dân gian gọi nôm na lại thành Sóc Trăng, bỏ chữ Nguyệt! Cà Mau do tiếng Khơ Me Tuk-khmau (nước đen). Vĩnh Bình do tiếng Khơ Me Preatrapeang (Hồ thánh). Bạc Liêu do tên Khơ Me Po-Loeuh (Cây da cao). Từ Long Xuyên đi Châu Đốc có Chắc Cà Đao nơi được biết tiếng do việc Tướng Hòa Hảo Lê Quang Vinh tức Ba Cụt đã bị bắt nơi đây. Ba Cụt đã được Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ dụ ra hàng nên đã bị bắt và đã bị Tổng Thống Ngô Đình Diệm xử tử bằng máy chém ở Cần Thơ. Chắc Cà Đao có lẽ là nói trại từ tiếng Khơ Me Cháp Cà Đam (cháp: bắt; Kdam: cua). Khi cuộc Nam Tiến kết thúc ở Hà Tiên, có lẽ nhờ ảnh hưởng phát huy văn hóa của các danh nhân khai phá vùng đất này như Mặc Cửu và con là Mặc Thiên Tứ (tác giả mười bài: Hà Tiên thập cảnh) nên nơi đây lại có những địa danh Hán Việt: Hà Tiên, Đông Hồ, Tô Châu, Hà Giang, Vân Sơn, Phù Dung...
Người bình dân thích chọn những danh từ họ dễ nhớ, phù hợp với sự suy diễn của họ. Trong việc giao dịch hằng ngày, dân chúng vẫn dùng những ngôn ngữ quen thuộc được truyền lại từ nhiều đời. Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người từ miền Trung vào nắm vận mạng miền Nam, đã có một thời đặt lại tên có tánh cách Hán Việt cho các địa danh ở miền đất này nhưng dân chúng vẫn thích gọi Cà Mau thay vì An Xuyên, Rạch Giá thay vì Kiên Giang, Long Xuyên thay gì An Giang, Cần Thơ thay vì Phong Dinh, Sóc Trăng thay vì Ba Xuyên, Mộc Hóa thay vì Kiến Tường, Blao thay gì Bảo Lộc...!
Để kết thúc bài viết này, tác giả không thể không kể đến một chuyện vui. Khi có cuộc hành quân Sóng Tình Thương vào vùng Cà Mau, một an toàn khu nhiều đời của Cộng Sản, trong buổi ăn sáng ở phòng ăn Sĩ Quan trên Hải Vận Hạm Cam Ranh HQ 500, Chỉ Huy Trưởng cuộc hành quân, cố Trung Tướng Thủy Quân Lục Chiến Lê Nguyên Khang - lúc ấy còn mang cấp bực Trung Tá - đã nói: “Trước giờ xuất phát, tôi xin nói với các đơn vị trưởng: Tối hôm qua, tôi xem trên bản đồ thấy gần Ngã ba Hóc Năng có rạch Ông Phiêu. Tôi không thể viết trong lịnh Hành quân nhưng tôi yêu cầu quý vị đơn vị trưởng đừng có đem bác sĩ Phiêu léng phéng đến cái rạch đó!”
Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm.
Trên mặt biển các cù lao thường được gọi là hòn. Lớn nhất và có tiềm năng kinh tế rất quan trọng là hòn Phú Quốc, rộng 200 dặm từ Đông đến Tây. Ngoài việc sản xuất các thổ sản như tiêu, dừa... Phú Quốc còn được biết trên toàn quốc với loại nước mắm hòn thơm dịu. Vùng Hà Tiên còn có các hòn Dầu Rái, hòn Chông nơi có động gọi chùa Hang. Trong Chùa Hang có hai tượng Phật tạc từ thế kỷ thứ XIV. Từ hòn Chông trông ra biển còn có hòn Phụ Tử. Ngay cửa biển Rạch Giá có Hòn Tre châu vi 20 dặm. Ngang vàm sông Ông Đốc ngoài vịnh Thái Lan có hòn Đá Bạc, rộng độ một cây số vuông. Nơi hòn này Việt Minh đã xử tử nhà ái quốc Hồ Văn Ngà. Trước khi chết ông Ngà đã nói với phía Cộng Sản:
“Giết thì cứ giết nhưng đừng kêu qua là Việt gian”
Giao thông đường bộ, đường sá ngày xưa thường không có đặt tên. Địa phương thường ghi các ngã đường bằng các loại cây đặc biệt như Ngã ba Cây Điệp, ngã ba Cây Quéo ở Gia Định, Ngã ba Cây Lơn ở Biên Hòa, Cây Mai với di tích Chùa cổ Cây Mai hay Chùa Gò vùng Phú Lâm, ngã Năm Bình Hòa ở Gia Định. Ngã Sáu Sài Gòn là nơi đặc điểm của sáu con đường giao nhau, khác với Ngã bảy Phụng Hiệp gần Cần Thơ là nơi xuất phát của bảy con kinh. Một vài khi, dân chúng lấy tên các nhân vật tiêu biểu để đánh dấu các ngã đường. Gần Sài Gòn có Ngã ba Ông Tạ, Ngã tư Bảy Hiền. Ở Gò Vấp, có một ngã ba mà ngày trước các quân nhân đều biết tiếng. Đó là Ngã ba Chú Ía, nơi cư trú của các cô gái giang hồ. Trên sông có một ngã ba được đời đời truyền tụng tức ngã ba Nhà Bè:
Nhà Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.
Ngày xưa các đường trong thị trấn không mang tên các nhân vật như ngày nay. Tỉnh lỵ Gia Định có các đường được dân chúng gọi theo các loại cây trồng: đường Hàng Bàng từ Cầu Bông đến Lăng Ông, đường Hàng Thị nơi có Kho Bạc và căn phố của ông Nguyễn An Ninh với tủ sách quý, đường Hàng Xanh từ Gia Định qua Thị Nghè với chùa Sư Muôn, đường Hàng Keo với cái bót mật thám Pháp giam các nhà ái quốc, đường Thốt Nốt gần Lăng Ông nơi có căn phố của Tạ Thu Thâu từng ở nhiều năm. Nhiều con đường khác sau này được đặt tên các nhân vật nhưng dân chúng vẫn dùng các tên xưa: đường Lò Heo Mới, đường Lò Heo Cũ, đường Nhà Thờ, bến Tắm Ngựa.
Miền Nam là vùng đồng bằng với rất nhiều sông rạch. Trái lại, núi non ở đây rất hiếm hoi. Ở mạn Đông Bắc mới có các núi nhỏ như Biên Hòa có núi Châu Thới cao độ 60 thước với chùa Hội Sơn trên đỉnh, núi Bửu Long, núi Đá Lửa, núi Đá Trắng...; núi Thị Vãi, núi Dinh vùng Bà Rịa; núi Lớn ở Vũng Tàu. Núi cao miền Đông chỉ có núi Chứa Chan (803 thước). Tây Ninh có núi Bà Đen, người Khơ Me gọi là yéay khmau (lão bà đen) một nữ thần gốc Thổ, được vua Gia Long phong “Linh Sơn Thánh Mẫu”. Về phía Tây, vùng Hà Tiên có vài núi nhỏ như núi Phù Dung, núi Địa Tạng, núi Đá Dựng, núi Mây (Vân Sơn). Chỉ có vùng Châu Đốc mới có dãy núi quan trọng là Thất Sơn hay Bảy Núi. Được biết nhiều nhất là Núi Sam, nơi có mộ phu nhân Thoại Ngọc Hầu, mộ Phật Thầy Tây An và miếu bà Chúa Xứ; núi Sập với đền thờ Thoại Ngọc Hầu. Núi Sập còn có tên Thoại Sơn, do triều đình Huế đặt để tưởng thưởng Thoại Ngọc Hầu, người có công đào cảng Đông Xuyên tức sông Ông Thoại và kinh Vĩnh Tế.
Tóm lại, trong khi ở miền Bắc hay Trung, các địa danh thường có những tên văn hoa thì ở miền Nam các địa danh lại có đặc tánh bình dân, mộc mạc. Chỉ trừ các nơi khi bắt đầu khai phá được các quan chức thời xưa đặt cho các tên văn chương Hán Việt như Biên Trấn, Gia Định, Tân An, Long Hồ... tên các nơi khác thường được dân chúng kêu trại ra từ các tên của hoặc Chàm, hoặc Khơ Me. Bắt đầu như Bà Rịa do tiếng Yéay Ria của Thổ tức lão bà hay mụ Ria. Châu Đốc theo người Khơ Me tên Mắt cruk và họ gọi đây là sóc Miệng heo. Sóc Trăng tên Khơ me là Păm prêk srok khlẳn (Péam: vàm; prêk: sông; srok: sốc; klẳn: kho bạc. Thời Khơ Me nơi đây có đặt một kho bạc). Đời Minh Mạng, tên chữ là Nguyệt Giang Tinh, dân gian gọi nôm na lại thành Sóc Trăng, bỏ chữ Nguyệt! Cà Mau do tiếng Khơ Me Tuk-khmau (nước đen). Vĩnh Bình do tiếng Khơ Me Preatrapeang (Hồ thánh). Bạc Liêu do tên Khơ Me Po-Loeuh (Cây da cao). Từ Long Xuyên đi Châu Đốc có Chắc Cà Đao nơi được biết tiếng do việc Tướng Hòa Hảo Lê Quang Vinh tức Ba Cụt đã bị bắt nơi đây. Ba Cụt đã được Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ dụ ra hàng nên đã bị bắt và đã bị Tổng Thống Ngô Đình Diệm xử tử bằng máy chém ở Cần Thơ. Chắc Cà Đao có lẽ là nói trại từ tiếng Khơ Me Cháp Cà Đam (cháp: bắt; Kdam: cua). Khi cuộc Nam Tiến kết thúc ở Hà Tiên, có lẽ nhờ ảnh hưởng phát huy văn hóa của các danh nhân khai phá vùng đất này như Mặc Cửu và con là Mặc Thiên Tứ (tác giả mười bài: Hà Tiên thập cảnh) nên nơi đây lại có những địa danh Hán Việt: Hà Tiên, Đông Hồ, Tô Châu, Hà Giang, Vân Sơn, Phù Dung...
Người bình dân thích chọn những danh từ họ dễ nhớ, phù hợp với sự suy diễn của họ. Trong việc giao dịch hằng ngày, dân chúng vẫn dùng những ngôn ngữ quen thuộc được truyền lại từ nhiều đời. Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người từ miền Trung vào nắm vận mạng miền Nam, đã có một thời đặt lại tên có tánh cách Hán Việt cho các địa danh ở miền đất này nhưng dân chúng vẫn thích gọi Cà Mau thay vì An Xuyên, Rạch Giá thay vì Kiên Giang, Long Xuyên thay gì An Giang, Cần Thơ thay vì Phong Dinh, Sóc Trăng thay vì Ba Xuyên, Mộc Hóa thay vì Kiến Tường, Blao thay gì Bảo Lộc...!
Để kết thúc bài viết này, tác giả không thể không kể đến một chuyện vui. Khi có cuộc hành quân Sóng Tình Thương vào vùng Cà Mau, một an toàn khu nhiều đời của Cộng Sản, trong buổi ăn sáng ở phòng ăn Sĩ Quan trên Hải Vận Hạm Cam Ranh HQ 500, Chỉ Huy Trưởng cuộc hành quân, cố Trung Tướng Thủy Quân Lục Chiến Lê Nguyên Khang - lúc ấy còn mang cấp bực Trung Tá - đã nói: “Trước giờ xuất phát, tôi xin nói với các đơn vị trưởng: Tối hôm qua, tôi xem trên bản đồ thấy gần Ngã ba Hóc Năng có rạch Ông Phiêu. Tôi không thể viết trong lịnh Hành quân nhưng tôi yêu cầu quý vị đơn vị trưởng đừng có đem bác sĩ Phiêu léng phéng đến cái rạch đó!”