Trong ký ức tôi, hình ảnh tát đìa ăn Tết là một kỷ niệm rất đặc biệt, rất êm đẹp của thời thơ ấu… Tôi nhớ mãi câu ngạn ngữ “Nay tát đầm, mai tát đìa, ngày kia giỗ hậu.”
Vào những ngày gần Tết Nguyên Đán, người miền Tây thường có phong tục tát đìa để chuẩn bị cá, tôm ăn Tết. (Hình: Vân Du/Người Lao Động)
Đìa là chỗ trũng ở ngoài đồng có đắp bờ để giữ nước và nuôi cá.
Muốn một cái đìa có nhiều cá, thì khi đào mở miệng nó, phải tôn trọng các nguyên tắc, các kinh nghiệm mà người dân quê đã truyền cho nhau như: Miệng đìa ngó hướng sông, hướng gió, thế nước để sao cho cá vào nhiều trong đìa. Bởi vậy mới có các ông “thầy đìa,” chỉ dẫn từng ly, từng tí bí quyết đào mới mong có kết quả sau này.
Cũng như con người, chết vì danh vọng, của cải, con cá chết vì ham đìa sâu, rộng, lại ấm, cho nó bơi lội thoải mái. Người kinh nghiệm có thể đánh giá một cái đìa có nhiều cá hay không. Thường thì bờ đìa cho cỏ mọc um tùm, mép bờ đìa láng o, thì đìa có nhiều cá.
***
Ngày xưa ở Lục Tỉnh thời khai hoang nhà nào cũng có sở hữu cái đìa ở ngoài ruộng, ai không có thì phải đào ao gần nhà dùng để làm cảnh trang trí, trồng sen, nuôi các loại thủy sản.
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
(Ca dao)
Lá xanh, bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
(Ca dao)
Thời khai hoang người nông dân thường lập vườn, đào ao, làm nhà trên ruộng của mình gọi chung là nhà vườn. Lâu đời người dân sống như vậy nên có lệ cúng Đất Đai Viên Trạch, là cúng Thần Đất, Thần Vườn và Thần Ao Đìa.
Đất đai là một vùng đất có ranh giới, vị trí, diện tích cụ thể và có chủ trú ngụ.
Tục cúng mâm Đất Đai Viên Trạch có từ lối sống người đi khai hoang, cho đến nay nó vẫn còn duy trì rất nghiêm túc.
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen”
(Ca dao)
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen”
(Ca dao)
Từ Tháng Chạp, tôm càng xanh nổi râu khắp mặt đìa và nhiều cá ăn móng như cơm sôi.
Cũng Tháng Chạp, những người nông dân chính hiệu, suốt đời gắn với những con nước lớn ròng nôn nao trong lòng, nhắc nhau ngày tát đìa.
Tát đìa bắt đầu vào buổi sáng, khi gà vừa gáy.
Các thanh niên và bậc lão nông đến sớm tập trung quanh miệng đìa, đốt đuốc sáng rực.
Không khí một buổi tát đìa rôm rả khác thường. Kẻ tát, người nghỉ để hút thuốc chờ thay phiên, nói chuyện trời trăng mây nước, tâm sự vợ con, nhộn nhịp vô cùng. Thường thì những người đứng gàu chỉ làm việc chừng nửa tiếng, sau đó đổi tay.
Ngày nay người ta dùng máy bơm, bơm nước, làm mất hết vẻ quyến rũ của một ngày tát đìa thuở xa xưa, khi ông bà đi mở đất. Thật là một điều đáng tiếc nếu một ngày kia, chiếc gàu dai không còn được sử dụng nơi đồng quê. Số phận của chiếc gàu dai, một ngày nào đó, sẽ giống như số phận của chiếc cối xay gió, mà ông Alphonse Daudet đã ghi lại trong văn học Pháp mà thôi.
Cái gàu là một công cụ dùng để tát nước vào ruộng lúa, gàu được làm bằng tre, nứa.
Gàu dai có hình thúng và có dây thừng, dùng cho hai người tát nước ở ruộng bậc cao.
Nó rất thân thiết với nông dân bao đời nay.
Tát đến khi mặt trời đứng bóng là được phân nửa đìa. Cá bắt đầu động đậy dưới lớp nước đã vơi đi. Ông chủ đìa nhìn mặt nước sôi bọt, biết sẽ có nhiều cá lóc hay cá trê.
Chừng nửa tiếng sau là cá lóc, có con to bằng bắp chuối hiện ra, trườn qua, trườn lại, lóc vào các chỗ cạn để tìm đường thoát. Khi đó, người chủ đìa nhảy vội xuống bắt ngay mấy con, quăng lên bờ cho mấy cô gái và hối thúc mấy cô đốt rơm nướng trui chuẩn bị cho món cá lóc nướng trui để đãi chòm xóm đã giúp tát đìa.
Bữa cơm với cá lóc nướng trui ngon lành vui hơn đám giỗ. Tiếng cười nói rổn rảng, dân làng quây quần bên nhau, đàn ông, con trai ngồi chồm hổm, đàn bà, con gái, xếp bằng. Thịt cá lóc, gỡ bằng tay, cuốn bánh tráng, đọt xoài, bông điên điển, khế chua, rau cải trời, chấm mắm, hay nước mắm dầm chanh ớt, cay xé miệng, ăn ngon gì đâu.
Cá bắt được cho vào bao, cho trâu kéo về.
Ăn uống xong tát tiếp cho đến khi đìa cạn. Cá phơi lưng ra. Những người đàn ông xăn quần nhảy xuống bắt cá. Đàn bà cầm đuốc để soi sáng và đuổi muỗi, hay chuyển cá lên bờ. Nào tôm càng xanh, cá trê, cá lóc, lươn, rắn, rùa, ốc bươu, lúc nhúc trong lớp bùn lên tới gối, tha hồ bắt. Rắn thì thường là loại rắn hiền, rắn ri voi, ri cá, rắn bông súng. Các con cá lóc bự cắm đầu vào sình non trốn, nhiều khi phải thọc tay vào thật sâu mới kéo được chúng ra.
Sau khi chủ đìa đã bắt được khá bộn, ra hiệu những người bắt cá hôi mạnh ai nấy mò, nhiều khi cũng trúng mối.
Chủ đìa chia cho các người tát đìa mỗi người một bao để trả công. Cá được rộng lại để ăn dần qua Tết. Còn dư, đem biếu xóm giềng. Xóm giềng cũng xúm lại giúp, đánh vẩy, móc ruột. Cá nhỏ làm mắm, cá lớn, chết, phơi khô.
Phần lớn cá đồng sau khi tát đìa sẽ được chia cho người thân, bạn bè. (Hình: Chúc Ly/Dân Việt)
Người dân quê ăn ở với nhau hiền hòa, nhân hậu, thấm đậm tình chòm xóm láng giềng, không giống với người dân thành thị, như hiện nay, tại Sài Gòn.
Từ nhỏ tôi sống ở làng quê, đến lớn, tôi là người sống tại thành thị. Tuy vậy cũng có về quê, nơi ông bà nội tôi sống, trong những ngày Tết hay trong dịp Hè nên cũng còn giữ lại được trong ký ức hình ảnh tát đìa ăn Tết, một kỷ niệm rất đặc biệt, rất êm đẹp của thời thơ ấu…
Tất cả đã đi vào dĩ vãng, kể cả nơi chốn, và con người dân quê hiền lành, chất phác, nhìn con trăng hạ tuần Tháng Chạp, nghe gió bấc lao xao thổi về, nghĩ tới chuyện tát đìa ăn Tết.
Những ngày giáp Tết nhà nhà hẹn nhau tát đìa. Nhà nào không có đìa thì đi “bắt hôi” tôm cá ở các nhà khác. Vậy nên, coi như Tết đến là cả xóm được chia phần, không ai thiếu thốn “vốn liếng” ăn Tết.
Cả năm túng thiếu, Tết đến chỉ cần tát đìa là đủ tiền sắm thêm cho ba ngày Tết.
Nam Sơn Trần Văn Chi