Ông anh họ Hồ tên Đắc Duệ bên ngoại tôi từng là nhạc công của giàn nhạc cung đình Huế thời Bảo Đại. Thấy tôi có năng khiếu về âm nhạc, ngoài việc dạy tôi đàn nguyệt và ca Huế ông còn hứa hẹn sẽ giới thiệu tôi vào nhóm nhạc cung đình Huế một ngày không xa. Cũng vì lời hứa sôi nổi như rứa mà suốt ngày tôi cứ ôm lẽ đời có câu "mộng tưởng thành chân". Điều này khiến tôi lúc nào cũng tưởng ánh nắng tràn ngập trong lòng sẽ mang đến nhiều may mắn cho ước mơ tôi. Nhưng đời không như là mơ, ước mơ của tôi không thành sự thật.
Từ ngày vị vua thứ 13, vị vua cuối cùng của triều nhà Nguyễn thoái vị, nhạc cung đình Huế chấm dứt kéo luôn giấc mộng cung đình của tôi tan tành theo mây khói. Có điều an ủi là dù ước mơ tan vỡ, tôi cũng đã học được nhiều điều hữu ích từ ông anh họ, nhất là một số tài liệu chép tay của ông về ca Huế và nhạc cung đình ông cuộn trong bao nylon đưa cho tôi về nhà tự học luyện giọng và học hỏi thêm. Nay ông anh họ mất đã lâu, nhớ ông tôi ư hử vài câu ca Huế và tóm tắt ôn lại bài học vỡ lòng năm xưa.
Nhạc Cung Đình: Nhã nhạc cung đình Huế
Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến, được biểu diễn vào các dịp lễ hội (vua đăng quang, băng hà, các lễ hội tôn nghiêm khác) trong năm của các triều đại nhà Nguyễn của Việt Nam. Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003. Theo đánh giá của UNESCO, "Trong các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia". "Nhã nhạc đã được phát triển từ thế kỷ 13 ở Việt Nam đến thời nhà Nguyễn thì Nhã nhạc cung đình Huế đạt độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất". Cùng với Không gian Văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, đây là di sản phi vật thể của Việt Nam đã được UNESCO chính thức ghi danh. Nhã nhạc Cung Đình Huế là một sự kế thừa, kể từ khi những giàn nhạc – trong đó có mặt nhiều nhạc khí cung đình – xuất hiện dưới dạng tác phẩm chạm nổi trên các bệ đá kê cột chùa thời Lý, thế kỉ XI-XII, đến lúc ông vua cuối cùng triều Nguyễn thoái vị vào giữa thế kỷ XX.
Về cơ bản, nhạc nghi thức trong âm nhạc cung đình Việt Nam, nhạc tế trong các đình làng cũng như loại nhạc nghi thức được chơi trong đám cưới hay đám tang, tất cả thường được chia thành hai nhóm chính: nhóm phe văn và nhóm phe võ. Việc phân chia của các nhóm nhạc cụ hòa tấu trong dàn nhạc cung đình ở Huế từ đầu thế kỷ XIX và nguồn gốc của nó đã được tìm thấy trong các quy luật của nhiều nghi thức cúng đình tại các làng xã của người Việt ở Bắc Bộ từ nhiều thế kỷ trước đây.
Từ những năm 30 của thế kỉ XVII, nhà văn hóa lớn Đào Duy Từ (1572-1634) tương truyền là tác giả của một số bài hát, điệu múa và vở hát bội cung đình thời các chúa Nguyễn, ông tổ lớn nhất của âm nhạc Huế và hát bội Huế được thờ tại nhà thờ Thanh Bình ở Huế đã tiếp thu nhạc Đàng Ngoài, và đã giúp chúa Nguyễn Phúc Nguyên lập ra một hệ thống lễ nhạc, triều nhạc mới. Hòa thanh thự của các chúa là tổ chức âm nhạc cung đình lớn của Đàng Trong gồm ban nhạc, đội ca, đội múa đông đảo (Đại Nam thực lục tiên biên). Cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII, nhạc cung đình Đàng Trong đã khá hoàn chỉnh, phong phú, hấp dẫn, theo những ghi chép và đánh giá của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán, thượng khách của chúa Nguyễn Phúc Chu sau chuyến đi thăm Đàng Trong và Phú Xuân của ông. Được mời xem ca múa nhạc và hát bội tại phủ chúa, nhà sư cho biết điệu múa thời đó là điệu múa Thái liên diễn tả dáng dấp đài các, trang nhã, tình tứ của các cô "tiểu hầu" của đô thành Phú Xuân vừa chèo thuyền vừa tươi cười hái sen. Các ca nhi vũ nữ ấy "đội mão vàng, áo hoa xanh dài phết đất, thoa son giồi phấn rất mực diễm lệ, làm nao lòng người xem". (Hồi ký Hải ngoại kỷ sự, bản dịch, 1963).
Cuối thế kỉ XVIII, thời Tây Sơn (1788-1802), năm 1790, tức một năm sau khi đại thắng Đống Đa ở Thăng Long, vua Quang Trung (giả) cùng một đoàn ngoại giao sang triều đình nhà Thanh, cầu hòa và chúc thọ hoàng đế Càn Long 80 tuổi. Càn Long ý phong cho vua Đại Việt là "An Nam quốc vương" và vui lòng thưởng thức đoàn "An Nam quốc nhạc" biểu diễn chúc thọ. Nhờ những ghi chép cụ thể của Đại Thanh hội điển sự lệ và tập văn kiện ngoại giao Đại Việt quốc thư mà âm nhạc cung đình thời Tây Sơn hiện ra khá rõ nét. Hội điển triều Thanh đã mô tả chính xác trang phục các nhạc công, ca công và vũ công người Việt. Nghệ nhân cung đình Tây Sơn chơi tám loại nhạc khí mà Hội điển triều Thanh đã ghi lại bằng chữ Nôm: "một cái cổ (kai kou: trống), một cái phách (kai p'o), hai cái sáo (kai chao), một cái đàn huyền tử (kai t'an hien tse, có thể là đàn tam), một cái đàn hồ cầm (kai t'an hou k'in), một cái đàn song vận (kai t'an choang wen, có thể là đàn nguyệt) một cái đàn tỳ bà (kai t'an p'i p'a), một cái tam âm la (kai san in lo). Đó là phần nhạc khí. Về phần hát, Đại Việt quốc thư cho biết bổ sung như sau: nhân dịp lễ thượng thọ của Càn Long 80 tuổi, đoàn quốc nhạc của ta gồm 6 nhạc công và 6 ca công cung đình đã biểu diễn cho hoàng đế nhà Thanh nghe "Nhạc phủ từ khúc thập điệu". Rất có thể đây là liên khúc 10 bản "Thập thủ liên hoàn" trong Nhã nhạc Cung đình Huế, cũng gọi là 10 bản Tấu, hay 10 bài Ngự, thậm chí có nghệ nhân gọi là mười bản Tàu (?) (mà khi được nghe chúng, người Trung Quốc chính hiệu đã cho rằng không có gì là "Tàu" cả). (Đại Thanh HĐSL, bản in 1908, Quyển 528, Thư viện Hội châu Á Paris; Đại Việt quốc thư, TT Học liệu (Bộ Giáo dục) xb., Sài gòn 1972).
Trong các thể loại nhạc cổ truyền Việt Nam, nhạc cung đình Huế là nhạc diễn xướng bởi trên 100 nghệ nhân vào những ngày lễ hội cho vua chúa và các đại thần, hoặc các lễ hội trang nghiêm khác. Nhạc cung đình đều phát nguồn từ trong các quy luật của nhiều nghi thức cung đình tại các làng xã người Việt từ nhiều thế kỷ trước.
Nhạc cung đình Huế có từ thời nhà Lý thế kỷ XI là một thể loại nhạc căn cứ theo quan niệm triết lý Nho giáo, cũng là biểu tượng của vương quyền. Nhưng các nghệ thuật ca múa thời đó, ngoài ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và Chiêm Thành còn chịu ảnh hưởng của các loại âm nhạc dân gian.
Nhạc cung đình Huế đầy tính trang trọng của Huế với 7 thể loại nhạc như Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại triều nhạc, Thường triều nhạc, Yến nhạc, Cung trung nhạc, quy tụ rất nhiều nghệ nhân có khả năng sử dụng nhiều loại nhạc khí gồm các bộ gõ, dây và hơi, như trống bản, đàn tỳ bà, đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tranh, sáo, khánh, chuông, mõ, phách (sênh tiền), v.v… Thời kỳ vàng son của âm nhạc cung đình là thời nhà Nguyễn khởi từ Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Đến thời Pháp thuộc, các vua nhà Nguyễn mất hết quyền bính và nhuệ khí khiến đời sống cung đình đâm ra tẻ nhạt, âm nhạc cung đình ngày càng suy giảm. Đời vua Thành Thái lập thêm một đội nghệ nhân thiếu niên, song tất cả đều hoạt động cầm chừng.
Năm 1942 là năm cuối cùng triều nhà Nguyễn, vua Bảo Đại cử hành lễ Tế Nam Giao, cũng là lần cuối cùng nhạc cung đình Huế được trình diễn trọng thể trước công chúng.
Tháng 8 năm 1945, trên Ngọ Môn, hoàng đế cuối cùng của triều nhà Nguyễn thoái vị. Nhạc cung đình Huế tan rã. Tuy nhiên, thân mẫu của vua Bảo Đại là đức Từ Cung đã đứng ra bảo trợ và duy trì đội nhạc cung đình tồn tại cho đến năm 1975.
Tài liệu chép tay của ông anh họ chỉ nói đến đời vua Bảo Đại là hết, không thấy đề cập tới tập đoàn UNESCO sau này công nhận Nhạc Cung Đình Huế là Di Sản Nghệ Thuật của nhân loại.
Nhân nói đến nhạc khí của nhạc cung đình Huế tôi lại có một kỷ niệm khó quên. Tuy tôi có chút năng khiếu về âm nhạc nhưng thuở mới nhập môn kỹ thuật của đàn nguyệt là khảy, rung, nhấn, vuốt, vỗ, vê (luân chỉ) tôi cứ lúng ta lúng túng, lọng ca lọng cọng, vụng về, cứng ngắc làm tiếng đàn cứ ọt ẹt, rên rỉ, ngòng ngọng như ai bóp cổ. Rứa mà khi tiếng đàn nguyệt của tôi trở nên mềm mại, duyên dáng, sắc điệu rộn ràng thì xảy ra biến cố chính trị buộc vua Bảo Đại thoái vị. Giấc mộng được tuyển vô nhóm nhạc cung đình Huế của tôi tan rã cũng là lúc tôi giã từ cây đàn nguyệt chuyển trường học về Sài Gòn. Đã hơn sáu mươi năm tôi lìa xa cây đàn nguyệt để rồi đàn thầy trả thầy; giọng ca Huế thanh thoát năm xưa cũng chìm xuống, im lắng theo tuổi tác tôi. Dù rứa tôi vẫn thương nhớ hình dạng cây đờn kìm và thích nghe tiếng đàn nguyệt tuy mộc mạc, trầm đục, chân tình nhưng phơi phới với nhịp điệu sinh động, thanh khiết, vui tươi.
Đàn nguyệt xuất xứ từ Trung Quốc, vốn có nhiều tên gọi. Đàn nguyệt còn được gọi là đàn song thanh hay song vận có 2 dây. Thùng đàn hình tròn như mặt trăng nên gọi là nguyệt cầm. Khi du nhập vào Việt Nam, người miền Nam ta gọi đàn nguyệt là đờn kìm, thùng đàn vẫn tròn không có lỗ phát âm, cần đàn dài hơn, phím đàn cao hơn, cách xa nhau và không đều nhau, từ 8 phím tới 11 phím, đánh theo lối ngũ cung. Đờn kìm được vinh danh là Quân Tử Cầm hay Vọng Nguyệt Cầm rất thịnh hành trong nghề đờn ca tài tử miền Nam. Hơn nữa, đàn nguyệt thường được dùng để độc tấu, hòa tấu trong ban nhạc chầu văn, ca Huế, phường bát âm…
Theo những tài liệu tham khảo hiện có, Đại Việt – Việt Nam – Đại Nam là trước khi kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ vào năm 1885. Hai tài liệu chủ yếu là Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (đầu thế kỉ XIX) và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của Quốc sử quán (giữa thế kỉ XIX) cho biết: Từ sau khi Gia Liều nhạc, Thường triều nhạc, Yến nhạc, Cung trung chi nhạc đã ảnh hưởng qua lại nhiều với nhạc cổ điển đất nước và con người thính phòng (ca Huế, đờn Huế) và nhạc tuồng cổ điển, cung đình (thanh nhạc và nhạc múa của hát bội Huế). Đáng chú ý là nhiều nhà hát rạp hát lớn nhỏ của vua, đại thần và dân thường được xây dựng làm nơi biểu diễn nhạc cung đình, nhạc cổ điển, hát bội hay nhạc dân gian: Duyệt thị đường trong hoàng thành, Minh khiêm đường trong lăng Tự Đức, Cửu tư đài trong cung Ninh Thọ, rạp hát ông Hoàng Mười, nhà hát Mai Viên tại tư dinh thượng thư Đào Tấn, đã không loại trừ sự tấp nập của những rạp hát ông Sáu Ớt (Nguyễn Nhơn Từ), rạp hát gia đình họ Đoàn (ở An Cựu), rạp hát bà Tuần (tồn tại đến 1975), v.v...
1802-1819: Thời Gia Long, Việt tương đội, một tổ chức âm nhạc cung đình lớn được thành lập với 200 nghệ nhân. Vua lại cho dựng đài Thông minh, một sân khấu ca múa nhạc và hát bội trong cung Ninh Thọ.
1820-1840: Minh Mạng cho xây dựng Nhà hát lớn Duyệt thị đường (1824), đổi Việt tương đội thành Thanh bình thự, lập thêm một Đội nữ nhạc với 50 ca nữ, vũ nữ, lại cho xây dựng Nhà thờ các tổ sư nghệ thuật âm nhạc và hát bội Huế: Thanh bình từ đường (1825). Trước nhà thờ dựng một tấm bia, một sân khấu hát bội và ca vũ nhạc. Văn bia cho biết vào đời Minh Mạng, nghệ thuật âm nhạc và sân khấu đã phát triển tốt đẹp: “Vũ đài xuân rạng hàng ngũ chỉnh tề, sân khấu mây lồng âm thanh dìu dặt (...) Khánh chuông ra lệnh xướng hòa, kèn trống nhịp nhàng đánh thổi (...) Trải mấy triều vương đều khuyến khích, Biết bao âm nhạc thảy dồi dào (...) Giữa điện đình ca múa, tỏ điềm thái vận nước nhà; Trên lăng miếu xướng hòa, ngưỡng đức cao thâm biển núi...” (Bản dịch của Ưng Dự).
1841-1883: Đời Tự Đức, âm nhạc cổ điển, nhã nhạc cung đình và hát bội cung đình đạt tới đỉnh cao. Nhà hát Minh khiêm đường được xây dựng (1864) trong Khiêm cung (sau khi vua mất sẽ gọi là Khiêm lăng). Tương truyền chính Tự Đức đã sáng tác bản nhạc Tứ đại cảnh nổi tiếng. Say mê thơ, nhạc và hát bội hơn chính trị, vua lập nên Hiệu thơ phòng để cùng các danh nho trong triều đình xướng họa thơ văn, thưởng thức âm nhạc, sáng tác hay nhuận sắc các vở hát bội. Nhà thơ và nhà soạn tuồng lỗi lạc thời Tự Đức là Đào Tấn (1845-1907).
1858-1885: Thực dân Pháp gây hấn và bắt đầu xâm lược nước ta từ Đà Nẵng, rồi chiếm dần Nam Bộ, Bắc Bộ. Tháng 8 năm 1885 kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ. Các vua Nguyễn sau Tự Đức đều được Pháp đưa ra làm vì, mất hết quyền bính. Đời sống cung đình tẻ nhạt, âm nhạc cung đình ngày càng sa sút.
1889-1925: Thành Thái lập Võ can đội, rồi thêm một đội Đồng ấu (nghệ nhân thiếu niên, làm dự bị cho Võ can đội). Tất cả đều hoạt động cầm chừng.
1914-1944: Tập san Những người bạn của Huế cổ kính (B.A.V.H.) (bằng tiếng Pháp) ra đời và xuất bản tổng cộng 120 tập (dày nhiều vạn trang) trong suốt 30 năm dưới sự điều khiển của nhà Việt Nam học lỗi lạc L.M. Léopold Cadière. Nhiều bài nghiên cứu có giá trị về nhạc Huế được công bố trên tập san, nổi bật nhất là công trình của nhạc sĩ cổ điển Hoàng Yến (1919): Âm nhạc ở Huế, đàn nguyệt và tranh.
1925-1945: Dưới thời Bảo Đại, Võ can đội đổi thành Ba vũ đội gồm cả một đội Đại nhạc và một đội Tiểu nhạc tổng cộng khoảng 100 nghệ nhân hoạt động rời rạc, trong lúc chờ đợi làm nhiệm vụ chính: tham gia phục vụ lễ Tế Nam giao (3 năm một lần) (theo lời kể của cụ Lữ Hữu Thi).
Năm 1942 là năm cuối cùng triều Nguyễn cử hành lễ Tế Nam giao, cũng là lần cuối cùng Nhã nhạc cung đình Huế được biểu diễn trọng thể trước công chúng. Ngày 31 tháng 8 năm 1945, trên Ngọ Môn, hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn vương quốc Đại Nam thoái vị. Nhã nhạc cung đình Huế tạm thời tan rã.
Ca Huế
Thuở nhập môn, giọng ca niên thiếu tôi thanh thoát, rộn ràng, nhanh, mạnh, đầy tự tin. Còn bây chừ thì ôi thôi rồi, tôi cố cách mấy giọng vẫn rè, khàn đục, già chát nghe lảng nhách, chán phèo, dở ẹc, dở thầy chạy.
Nhưng mà ca Huế là gì, ca ra răng, làm răng? Trả lời dễ ẹc. Ca Huế là một thể loại âm nhạc cổ truyền của xứ Huế. Đơn giản rứa thê. Cũng tài liệu chép tay của ông anh họ khái quát ghi rằng:
Ca Huế phát sinh từ trong cung đình vào thế kỷ thứ 17, là thú chơi tao nhã của hoàng thân quốc thích, danh gia vọng tộc. Ca Huế có giá trị cao về nghệ thuật, giáo dục cũng như nhân cách của con người, được phổ biến rộng rãi ở các tỉnh phía Bắc cũng như phía Nam. Chính vì vậy nên ca Huế rất đa dạng và phong phú, mang âm hưởng của hai điệu thức Bắc rộn rã, vui tươi và Nam nỉ non, ai oán, hầu hết thường diễn qua 4 nhạc khúc thịnh hành Lưu Thủy, Kim Tiền, Xuân Phong, Long Hổ.
Tài liệu chép tay của ông anh họ chỉ nói ca Huế là loại nhạc thính phòng, không thấy nói ca Huế trên sông Hương. Ngày nay, ca Huế đã vượt ra ngoài cung đình để những câu hát, điệu hò Huế ngọt ngào, xao xuyến với những âm điệu trầm bổng, du dương của giọng hát hòa quyện với tiếng dìu dặt của dàn nhạc gồm đàn bầu, đàn tranh, đàn nguyệt, tỳ bà, sáo, xênh, phách… trổi lên trên thuyền rồng bồng bềnh trên sông Hương sẽ ru tâm hồn giới thưởng ngoạn vào miền ký ức sâu thẳm khởi từ đời nhà Lý.
Ca Huế là một thể loại âm nhạc cổ truyền của xứ Huế, được hình thành từ sự kết hợp dòng ca nhạc dân gian với ca nhạc cung đình. Ca Huế thể hiện theo hai dòng là điệu Bắc và điệu Nam. Điệu Bắc gồm những bài ca mang âm điệu tươi tắn, trang trọng. Điệu Nam là những bài âm điệu buồn, nỉ non, ai oán. Ca Huế bao gồm khoảng 60 tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc theo hệ thống bài bản phong phú. Giàn nhạc để biểu diễn ca Huế gồm có nhạc công với trang phục áo the đầu đội khăn xếp, chơi các nhạc cụ đàn nhị, đàn nguyệt, sáo và đàn bầu. Các ca công là nữ với trang phục áo dài truyền thống và chơi các nhạc cụ sanh loan, sanh tiền.
Ca Huế mang đậm sắc thái địa phương, phát sinh từ tiếng nói, giọng nói của người Huế do đó gần gũi với Hò Huế, Lý Huế đồng thời là chiếc cầu nối giữa nhạc cung đình và âm nhạc dân gian. Dù trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, ca Huế vẫn trường tồn cho đến hôm nay và mai sau.
Núi Ngự Bình mơ màng trăng gió
Niềm tâm sự ai thấu rõ cho mình;
Đoái nhìn sông Hương nước chảy thanh thanh,
Sông bao nhiêu nước dạ em si tình bấy nhiêu.
Núi Ngự Bình trước tròn sau méo,
Sông An Cựu nắng đục mưa trong,
Mặc ai một dạ hai lòng,
Em ôm duyên thủ tiết loan phòng đợi anh…
Khoảng thế kỷ XVII, ca Huế dường như trở thành thú vui tao nhã của tầng lớp hoàng thân quốc thích, gia đình danh gia vọng tộc trong suốt thời gian dài khi Huế là thủ phủ xứ Đàng Trong, sau đó là kinh đô của cả nước dưới triều Nguyễn, đạt đến đỉnh cao từ thời Minh Mạng (1820-1840) đến thời Tự Đức (1848-1883).
Vào thời vua chúa, ca Huế rất thịnh đạt nhưng đến giai đoạn 1885-1945 đã ngưng đọng, mãi cho đến giai đoạn từ 1945-1989 bị suy thoái.
Phan Ni Tấn