Hơn bốn ngàn năm lập quốc, ngay từ những năm tháng sơ khai, dân tộc ta đã phải đương đầu với tai họa chiến tranh. Cuộc chiến đấu vệ quốc đầu tiên của dân tộc Việt Nam xảy ra dưới thời Hồng Bàng, cách nay hơn 4 ngàn năm. Truyền thuyết kể rằng: "Đời Hùng Vương thứ 6 có đám giặc gọi là giặc Ân, hùng mạnh lắm, không ai đánh nổi. Vua mới sai sứ đi rao trong nước để tìm người tài giỏi ra đánh giặc giúp nước. Bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Võ Ninh (nay là huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh) có đứa trẻ xin đi đánh giặc giúp vua. Sứ giả về tâu vua, vua lấy làm lạ, cho đòi vào chầu. Đứa trẻ ấy xin đúc cho một con ngựa và cái roi bằng sắt. Khi ngựa và roi đúc xong thì đứa trẻ ấy vươn vai một cái, tự nhiên người cao lớn lên một trượng, rồi nhảy lên ngựa cầm roi đi đánh giặc.
Phá được giặc Ân rồi, người ấy đi đến núi Sóc Sơn thì biến đi mất. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng, về sau phong là Phù Đổng Thiên Vương." (1). Đứa-trẻ-chiến-binh của làng Phù Đổng - chính là đại biểu của tuổi trẻ Việt Nam, một tuổi trẻ giàu lòng yêu nước - trải qua mấy ngàn năm lịch sử vẫn được nhân dân ta gọi là Thánh Gióng! Và hình ảnh của người chiến sĩ đầu tiên đó đã được nhân dân ta nhắc đến với một tấm lòng kính phục và biết ơn sâu sắc:
Và để tưởng nhớ người chiến binh anh hùng đầu tiên của dân tộc, không biết tự bao giờ, cứ vào ngày 9 tháng Tư âm lịch, nhân dân quanh làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng, thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh lại tổ chức ngày Hội Gióng:
Đây là một ngày lễ hội thật tưng bừng, diễn lại sự tích Thánh Gióng đánh giặc Ân xâm lăng, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ cho tổ quốc Việt Nam còn trong thời kỳ non trẻ:
Và tiếp sau cuộc chiến đấu hào hùng của người chiến binh làng Gióng, lịch sử nước ta đã phải trải qua bao nhiêu cuộc chiến tranh chống lại nạn xâm lăng của người phương Bắc? Nhân dân ta đã phải chống trả lại bao nhiêu cuộc chiến tranh chống lại nạn quấy phá của các nước láng giềng Lão Qua, Bồn Man, Chiêm Thành hay của người Nùng, người Thái ở miền thượng du đất Bắc đến người sắc tộc thiểu số thuộc dãy Trường Sơn? Và nhân dân ta đã phải tham gia bao nhiêu cuộc chiến tranh gọi là "mở mang bờ cõi về phương Nam"? Nhân dân ta đã phải tham gia bao nhiêu cuộc chiến tranh để đàn áp các phong trào nổi dậy của quần chúng bị áp bức? Và nhân dân ta đã phải tham gia bao nhiêu cuộc chiến tranh tranh quyền đoạt vị giữa các dòng họ từ loạn 12 sứ quân (945-967) của buổi đầu quốc gia độc lập đến những cuộc đánh nhau giữa Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn, Nguyễn - Tây Sơn với khoảng thời gian 300 năm dài loạn lạc bắt đầu từ ngày Mạc Đăng Dung thoán ngôi vua Lê (1527) đến ngày Nguyễn Ánh thống nhất đất nước lên ngôi cửu ngũ gọi là vua Gia Long (1802)? Nói thế không có nghĩa là từ ngày Gia Long trị vì đất nước ta đã thôi loạn lạc đâu. Thời Gia Long (1802-1819) hàng chục thì từ thời Minh Mang (1820-1840) và các vua kế tiếp đã có hàng trăm cuộc dấy loạn của đám nông dân nghèo khổ nổi lên chống lại sự cai trị hà khắc của triều đình nhà Nguyễn.
Lịch sử dân tộc đã ghi lại bao nhiêu chiến công oanh liệt của tiền nhân với những tên tuổi lẫy lừng từ Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Mai Hắc Đế, Bố Cái Đại Vương đến Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... với hàng hàng, lớp lớp những chiến binh anh hùng đã đem xương máu tài bồi cho nền độc lập của Tổ Quốc! Vậy mà, lịch sử văn học của ta hầu như không để lại một thiên anh hùng ca nào để vinh danh cho những anh hùng hoặc hữu danh hoặc vô danh của dân tộc, ngoại trừ những đoạn mô tả lại hình ảnh hào hùng của các bậc anh hào nữ kiệt trong các tác phẩm diễn ca lịch sử như Thiên Nam Ngữ Lục của Vô danh thị (hay của Thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng?) hay Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái!
Và một phần nữa là ở trong Ca Dao.
Mà người lính trong ca dao dù có được nhắc đến cũng không phải là nhiều so với những công trạng, những thử thách, những gian nguy khổ ải mà họ đã phải gánh chịu qua suốt dọc trường kỳ lịch sử của Dân Tộc. Vả lại, ngày nay có căn cứ theo ca dao để phác họa lại chân dung của người lính thời xưa thì cũng khó mà phác họa một cách trung thực, bởi lẽ, ngay trong thời kỳ quốc gia độc lập, trải qua nhiều triều đại cầm quyền, hình ảnh của người lính chắc cũng không có những thay đổi gì nhiều trong cách trang phục và những vũ khí mà họ sử dụng. Và sự thay đổi có xảy ra cũng chỉ là từ khi ta chịu ảnh hưởng phần nào của người Tây phương khi ta bắt đầu giao tiếp với họ bằng con đường tôn giáo và thương mại. Vả lại, số ca dao còn lai mô tả về người lính cũng không phải là nhiều so với lượng ca dao đã được sưu tập!
Dưới đây, người viết thử phác họa lại hình ảnh của người lính thời xưa, cái thời mà nền văn minh của nước ta chưa tiếp xúc với nền văn minh Tây phương. Dĩ nhiên đây chỉ là hình ảnh người lính chiến thời xưa được dân chúng khắc họa một cách không hoàn hảo, và cũng dĩ nhiên là ta không rõ đó là hình ảnh người lính chiến thuộc triều đại nào của lịch sử Việt Nam:
Dưới đây là hình ảnh của người lính thời xưa trong một bài ca dao khác:
Và trong một bài khác nữa:
Qua những câu được trích dẫn ở trên, ta thấy hình ảnh người chiến binh thời xưa được mô tả như sau:
Đầu đội nón dấu: nón dấu là loại nón được đan bằng tre, có chóp, dùng cho binh lính thời xưa. Đôi khi, người lính còn chít khăn trên đầu trước khi đội nón (cái khăn màu đằng. Màu đằng là màu tím)
Chiến y của người lính xưa thường là màu đỏ:
(Màu vang tức là màu đỏ. Ta có thành ngữ: "đỏ như vang")
Hay trong câu:
Trong bản dịch Chinh Phụ Ngâm của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (cuối thế kỷ thứ 18), ta cũng thấy người chiến binh mặc áo đỏ:
Ngang thắt lưng có thắt một cái hầu bao màu vàng:
Ngang lưng thì thắt bao vàng...
Ngang lưng anh thắt đai vàng...
Và vũ khi của người lính thì quá nhiều:
Này nhé:
Súng đây là loại súng bắn đá gọi là "thạch cơ điểu thương".
Nhiệm vụ chính của người chiến binh là đi đánh giặc:
Ngoài nhiệm vụ đánh giặc (?), người lính thời xưa còn phải làm muôn ngàn công việc vất vả cực nhọc:
Hay:
Đó là những công việc của người lính ở ngoài biên ải, ở chốn chiến trường: vất vả, gian nan, luôn luôn phải đối đầu với cái chết. Nhưng người lính ở hậu phương nào có khác gì. Ngay người lính ở kinh đô cũng phải làm muôn vàn công việc vất vả, gian nan, đầy nguy hiểm. Chẳng hạn, đây là số phận của người lính dưới thời vua Tự Đức: "Đến năm Bính Dần (1866) là năm Tự Đức thứ 19, nhà vua đang xây Vạn Niên Cơ tức là Khiêm Lăng bây giờ, quân sĩ phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận." (2). Có thể nhân lòng dân quân oán hận nhà vua mà những người chủ trương cuộc nội loạn lật đổ nhà vua đã cho loan truyền câu ca dao sau đây để kích động lòng dân chúng:
Ngoài những công việc nặng nhọc, hiểm nguy, người lính lại phải chấp nhận một cuộc sống vật chất thiếu thốn, đầy kham khổ:
Trên đây là những ghi nhận sơ lược về nhiệm vụ và đời sống vật chất thiếu thốn của người lính thời xưa. Còn đời sống tình cảm của họ thì sao?
Ngoại trừ trong những giai đoạn chống giặc xâm lăng phương Bắc hay chống lại những cuộc chiến tranh phá hoại của các lân bang như Lão qua, Bồn Man, Chiêm Thành là lúc tinh thần người lính phấn chấn, họ nhận rõ được trách nhiệm của họ đối với quốc gia, dân tộc, còn trong những giai đoạn nhiễu nhương của đất nước, tinh thần của họ thật sa sút. Trước hết, họ thấy mình thật cô đơn. Trấn thủ nơi biên ải, họ cảm thấy như mình bị đi đày và không còn biết tin vào ai, biết nương cậy vào ai. Ai cũng có thể làm cho họ nghi ngờ. Họ chỉ biết tin vào định mệnh khắt khe, định mệnh tàn nhẫn, thế thôi:
Thân ở nơi biên ải mà hồn thì vất vưởng chốn quê nhà, thương cha thương mẹ, thương vợ thương con, ngàn mối lo không cách nào xoay xở nổi:
Ở ngoài biên trấn, nỗi lo âu như quấn chặt lấy họ. Lo gì? Nghĩ gì? Trăm mối lo ngổn ngang trong lòng:
Chính những nỗi lo âu dằn vặt tâm hồn họ. Họ cảm thấy thực sự bế tắc trong cuộc đời binh ngũ, vì vậy, khi có lệnh xuất quân, họ có cảm nghĩ như mình sắp đi vào tử địa. Cái tâm trạng lo âu sợ hãi đã bộc lộ một cách hết sức chân thật bằng những giọt nước mắt chua cay khi có lệnh xuất quân:
Khi nghe tiếng trống xuất quân đổ liên hồi, chàng chiến binh với cái mã ngoài đầy hào hùng với những "súng dài, hỏa mai, giáo" đã òa lên khóc! Tội nghiệp! Có thể chàng khóc vì phải xa cha mẹ, vợ con. Có thể chàng khóc vì nhiều lý do khác nhau. Nhưng chưa hẳn chàng là người hèn nhát. Có thể chàng đã khóc vì một lý do chính đáng: chàng không muốn mình phải hy sinh vô nghĩa trong một cuộc chiến tranh tương tàn, tranh quyền đoạt vị giữa các dòng họ. Đây nầy:
Cuộc chiến tranh nào đây? Đây là cuộc chiến tranh của dòng họ vua Lê và chúa Trịnh tìm cách tiêu diệt dòng họ Mạc đang dùng Cao Bằng làm căn cứ địa cuối cùng để chống với nhà Lê!
Và đây:
Cuộc chiến tranh nào đây? Đây là cuộc chiến tranh giữa một bên là vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài với một bên là Chúa Nguyễn ở Đàng Trong!
Và đây nữa:
Cuộc chiến tranh nào đây? Đây là cuộc chiến tranh giữa chúa Nguyễn và anh em nhà Tây Sơn!
Chắc chắn chàng không phải là người chiến binh dưới ngọn cờ hào hùng của Ngô Quyền trong trận thư hùng trên sông Bạch Đằng đánh tan đoàn quân xâm lăng Nam Hán giành lại nền Độc Lập cho Tổ quốc Việt Nam năm 939!
Chắc chắn chàng không phải là người chiến binh dưới hàng quân của Lý Thường Kiệt đã từng vượt biên giới Việt Hoa đuổi quân nhà Tống chạy cách xa biên giới hàng trăm dặm và sau đó đã đánh tan quân nhà Tống trên sông Như Nguyệt để giữ vững ngọn cờ Độc Lập của Quốc gia:
(Lý Thường Kiệt - Hoàng Xuân Hãn dịch)
Chắc chắn chàng không phải là người chiến binh dưới ngọn cờ bách thắng của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn 3 lần chiến thắng đoàn quân Nguyên hùng hổ nhất thời bấy giờ đã từng kéo quân từ Âu sang Á và đến Việt Nam phải khuất phục dưới sức đề kháng kiên cường của quân dân thời nhà Trần!
Chắc chắn chàng không phải là người chiến binh của Bình Định Vương Lê Lợi xuất quân từ Lam Sơn rồi kéo thẳng ra Đông Đô đúng như lòng ước nguyện của muôn dân:
đuổi quân nhà Minh chạy về phương Bắc không dám ngoái đầu lại nhìn đất Đại Việt oai hùng!
Chắc chắn chàng không phải là người chiến binh dưới hàng quân của Quang Trung Nguyễn Huệ trong cái ngày xuất quân từ Phú Xuân ra Bắc Hà để tiêu diệt đội quân xâm lăng của Tôn Sĩ Nghị đang nằm chờ chết ở gò Đống Đa phía Nam kinh thành Thăng Long! "Tinh thần chiến đấu của binh đội Tây Sơn theo nhận xét của nhiều nhà truyền giáo ngoại quốc, rất là cao. Người lính nào cũng gan dạ, thuần thục, một chống nổi mười nên đánh đâu thắng đấy" (3):
Trên đây là những thời kỳ oai hùng trong lịch sử dân tộc. Mọi người dân đều nêu cao tinh thần trách nhiệm của mình đối với sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Đứng trước tình trạng sinh tử của đất nước, họ đã nêu cao tinh thần ái quốc một cách triệt để. Mọi tình cảm gia đình đều được để riêng một bên, chỉ còn lại tinh thần trách nhiệm cao độ của người con trai đối vối quốc gia:
Hay:
Ngay cả người phụ nữ, những người mẹ, người vợ cũng khuyên con, khuyên chồng làm tròn nghĩa vụ của một người dân đối với đất nước:
Họ khuyên chồng con đi lính, mọi việc gia đình họ hứa sẽ chu toàn cho người đàn ông khỏi bận tâm:
Chính tinh thần trách nhiệm của người đàn bà (người vợ) cộng với tinh thần trách nhiệm của mình mà người chiến binh đã có thể an lòng giao việc phụng thờ tiên tổ cho vợ hiền để chàng theo vua ra trấn biên ải giữ vững an ninh cho Tổ quốc:
Đó là thời kỳ của những ông vua vì dân vì nước. Đó là thời kỳ của những bậc minh quân cai trị quốc gia. Đó là thời kỳ của những Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Quang Trung Nguyễn Huệ - những vì vua đã đem lại vinh quang cho dân tộc!
Người chiến binh "bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa" như được trích ở trên có thể đã sinh ra trong một thời kỳ đất nước đầy nhiễu nhương. Trước mắt chàng chỉ là hình ảnh tranh quyền đoạt lợi giữa những thế lực phong kiến, chẳng hạn như giữa dòng họ Mạc với dòng họ Lê tạo nên thời kỳ Nam Triều - Bắc Triều (1527-1592), giữa dòng họ Trinh và dòng họ Nguyễn, giữa dòng họ Nguyễn Tây Sơn với dòng họ Nguyễn Gia Miêu tạo nên thời kỳ Nam Bắc Phân Tranh kéo dài hàng hai trăm năm (1600-1802).
Chàng đã gia nhập quân đội trong cái tâm trạng bất đắc dĩ như thế nên chẳng cần phải đợi giờ xuất quân chàng mới "nước mắt như mưa", mà ngay trong cái công việc phục dịch ở địa phương chàng cũng đã không cầm được nước mắt vì nghĩ đến cái thân phận bi thảm của mình:
Vào những thời kỳ loạn lạc tranh ngôi đoạt vị giữa các dòng họ Lê-Mạc-Trịnh-Nguyễn trong hơn 300 năm đó, trai tráng phải chịu trăm cay nghìn đắng vì nạn bắt lính. Đây, ta hãy xem Thích Đại Sán, một vị Hòa Thượng Trung Hoa trong khi thi hành Phật sự ở xứ Đàng Trong thời Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) mô tả những điều mà Ngài đã mắt thấy tai nghe trong tác phẩm Hải Ngoại Kỷ Sự: "Mỗi năm vào khoảng Tháng Ba, Tháng Tư, quân nhân đi ra các làng, bắt dân từ 16 tuổi trở lên, những người thân thể cường tráng, đóng gông lại bằng một cái gông tre hình như cái thang nhưng hẹp hơn để giải về phủ sung quân..." (4) Tình trạng bắt lính như thế không phải chỉ xảy ra ở Đàng Trong, mà còn xảy ra ở Đàng Ngoài của vua Lê chúa Trịnh; không phải chỉ xảy ra trong thời kỳ Nam Bắc phân tranh (1627-1775) mà còn xảy ra trước đó dưới thời Nam Bắc Triều (1527-1592) giữa dòng họ Mạc và dòng họ Lê:
Hay:
Binh chế không được quy định rõ ràng, thời gian tại ngũ là bao lâu hầu như không được minh xác bằng một văn bản nhất định như Thích Đại Sán đă ghi trong tác phẩm dẫn thượng: " ... tuổi chưa đến 60 chẳng được về làng cùng cha mẹ, vợ con đoàn tụ..." nên đã xảy ra tình trạng người lính chỉ biết cầu mong mau hết giặc giã để được về quê hương đoàn tụ với cha mẹ vợ con. Một câu hỏi nghe sao mà chua chát, một ước vọng như một giấc mơ hão huyền trong thời kỳ đất nước loạn ly:
Một câu hỏi dường như không có câu trả lời. Ta hãy nghe lời đối thoại của một cặp vợ chồng trẻ, vợ bụng mang dạ chửa, đã hẹn với chồng trong giờ phút chia ly chàng ra chiến trận, những lời chân thực bộc lộ một thái độ chịu đựng thật chua cay, mà có lẽ chỉ có người đàn bà Việt Nam mới có đủ can đảm để nói lên sự chịu đựng chua cay đó:
Chao ôi! Chàng ra đi khi thiếp chưa sinh, vậy mà thiếp đã đoán chừng cho đến ngày con khôn lớn có thể "dựng vợ, gả chồng" chưa chắc chàng đã trở về! Cái thực tế của một thời kỳ trong lịch sử Việt Nam là như vậy đó, nhưng chính sử có mấy khi được ghi chép đúng đắn!
Dưới thời nhà Lý, nhà Trần các thân vương đều có quyền tuyển mộ binh lính và thành lập các cơ đội riêng. Dĩ nhiên trong tình trạng này, các thân vương không đủ lương phạn chi phí cho đội quân riêng của mình, do đó, hoặc là binh sĩ phải khai hoang lập điền, trồng trọt để tạo lương thực hoặc là do chính gia đình người lính phải cung cấp lương thực cho thân nhân. Dưới đây là tình hình lương bổng của người lính xứ Đàng Trong, từ đó ta có thể suy ra tình trạng lương bổng cho người lính của các phía đối nghịch nhau trong cả nước: "Ngoài chánh binh hoặc tinh binh ra, các quan Trấn thủ, Lưu thủ thường lấy dân địa phương làm lính để canh giữ các nơi, binh ấy gọi là thổ binh, hoặc tạm binh, hoặc thuộc binh. Số binh ấy rất đông gấp mấy lần chánh binh mà lại không được trả lương tháng như chánh binh, họ chỉ được miễn sưu thuế mà thôi." (5). Xem thế tình trạng người lính tự cung tự dưỡng không phải chỉ xảy ra trong thời nhà Lý, nhà Trần mà nó còn kéo dài gần như suốt thời kỳ các triều đại phong kiến cai trị đất nước:
Có những người đàn bà một đời lao đao khổ nhục vì chiến tranh, hết lo cho chồng lại đến lo cho con ở chiến trường:
Mọi chắt bóp dành dụm của người vợ cứ theo ngày tháng tại ngũ của chồng không cánh mà bay đi dần dần trong nỗi tuyệt vọng trông chờ ngày chàng về - cái ngày về sao mà xa diệu vợi:
Đời sống của người lính vất vả quá. Đời sống của người lính gian nan quá! Họ phải cắn răng chịu đựng "hữu thân hữu khổ biết phàn nàn cùng ai!". Thế nên, đã có người thốt nên lời than vãn chua cay:
Đời sống của người lính vất vả, gian nan là vậy. Đời sống của người vợ lính gieo neo, vất vả nào có kém gì. Vì vậy, đã có lúc người ta đã khuyên bảo nhau:
Kể từ thời Lý Nhân Tông (1072-1127), nhà vua cho mở khoa thi tam trường vào năm Ất Mão (1075) để kén nhân tài ra gánh vác việc triều đình, và năm Bính Thìn (1076) cho lập Quốc Tử Giám lấy Tứ Thư Ngũ Kinh làm sách giáo khoa, đào tạo quan lại cho triều đình thì Nho Giáo thực sự được tôn trọng. Nho Giáo rất chú trong về vấn đề giáo dục đạo đức - tiên học lễ, hậu học văn - thế nên, trong thời hưng thịnh của Nho Giáo, các quan lại của triều đình là những người tiêu biểu cho nền đạo đức Nho Giáo, luôn luôn giữ giềng mối của tam cương (vua tôi, cha con, chồng vợ) và ngũ thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín). Thế nhưng, vào những thời kỳ quốc gia loạn lạc, nạn tranh quyền đoạt vị giữa các dòng họ hoành hành, thì nền luân lý đạo đức của Nho Giáo cũng suy tàn theo và ta sẽ thấy người dân đã lột trần mặt nạ của những vị quan "dân chi phụ mẫu" ăn trên ngồi trước của triều đình bằng những hình ảnh châm biếm thật sâu sắc và cũng từ đó ta thấy thân phận của người lính cũng thật bi đát. Họ phải làm những công việc thật đáng tủi hổ là đi ve gái cho các quan tai to mặt lớn của triều đình:
Ông Nghè tức là người đỗ Tiến Sĩ, học vị cao nhất trong khoa cử ngày xưa. Và ông Nghè ra làm quan thì chí ít cũng là quan Bố Chánh, Án Sát đứng đầu một tỉnh. Vậy mà ông Nghè đã sai lính đi ve gái cho mình thì còn gì là luân thường đạo lý! Mà cũng tội nghiệp cho người lính biết chừng nào!
Cái đặc sản của những thời kỳ quốc gia loạn lạc là như vậy đó. Quan đã vậy thì lính cũng chẳng hơn gì. Cứ xem vào thời mạt vận của triều đại Hậu Lê và dòng họ Trịnh thì đủ biết. Dòng họ Lê và dòng họ Trịnh xuất thân từ Thanh Hóa, nhờ quân sĩ 3 phủ ở Thanh Hóa và bốn phủ ở Nghệ An để bảo vệ nghiệp Vua và nghiệp Chúa gọi là "Ưu binh" hay lính "Tam Phủ". "Lính ưu binh đóng ở kinh đô, được kén làm quân túc vệ để bảo vệ hoàng gia và phủ Chúa, được nhiều đặc ân, đặc quyền như được cấp công điền và cả chức sắc" (6). Bọn lính nầy ỷ vào thần thế của nhà Vua và nhà Chúa càng ngày càng lộng hành, kéo nhau hàng đoàn hàng lũ đi cướp phá của dân chúng, ngay cả nhà của các quan lại đầu triều chúng cũng không từ. Thế nên dân chúng rất căm ghét bọn lính nầy mà họ gọi là "kiêu binh". "Hễ có đứa nào đi lẻ loi thì dân làng lại bắt giết đi, thành ra quân với dân xem nhau như cừu địch..." (7). Đây có thể được xem là hình ảnh đen tối nhất, bất xứng nhất của người lính trải qua mọi triều đại. Ngay cả triều đại Tây Sơn, đánh tan 20 vạn quân Thanh vào năm Mậu Thân (1789), phá tan mộng xâm lăng của kẻ thù phương Bắc, tạo nên một chiến công lẫy lừng vào bậc nhất trong lịch sử Việt Nam với vị vua anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ. Vậy mà, khi vị anh hùng cái thế nằm xuống (1792), triều đại Tây Sơn nằm dưới quyền Thái Sư Bùi Đắc Tuyên, tinh thần binh sĩ dần dần sa sút đến độ đoàn quân đã hơn một lần tốc chiến tốc thắng nay chỉ còn là một đội quân rã rời với hàng ngũ chỉ huy chỉ là những tên bỏ tiền ra mua địa vị trong quân ngũ như Phan Huy Chú (1782-1840) đã nhận xét trong mục Quan Chế Chí trong bộ sách Lịch Triều Hiến Chương loại chí: "Xét rằng tước ấp đời Lê rất là quan trọng, từ đời Hồng Đức về sau chưa từng cho lạm bao giờ. Người có tước ở triều đình phải là người làm quan lâu mới được cất nhắc... Gần đây Tây Sơn phong tước quá lạm, đến cả phu quét chợ, lính đẩy xe cũng trao cho tước hầu, tước bá!" (8). Đây, hàng ngũ chỉ huy quân đội Tây Sơn thời mạt vận:
Người chiến binh thực sự bị dân chúng ghét bỏ một khi họ trở thành kiêu binh, lợi dụng quyền thế để hà hiếp dân lành, khinh thường luật pháp quốc gia; chứ thực ra, trước những chịu dựng vất vả của người lính, dù là trong thời kỳ đánh giặc ngoại xâm hay trong thời kỳ nội chiến, dân chúng vẫn có cảm tình với người lính:
Họ thương người lính vì người lính phải chinh thú xa quê hương, bỏ lại quê hương những người thân thuộc mà không biết lấy ai đỡ đần khuya sớm:
Đối với bất cứ triều đại nào, dù là trong thời bình hay thời chiến, quân đội luôn là một tập thể cần thiết để bảo vệ chính quyền trước nạn nội chiến hay ngoại xâm. Thế nhưng, trên thực tế, quan văn còn do khoa bảng xuất thân, còn quan võ thì thường là những người đánh giặc có tài được thăng quan tiến chức, về sau, tuy triều đình có tổ chức các khoa thi võ và cũng có những học vị như bên văn tức là tú tài, cử nhân hay tiến sĩ võ, nhưng phần nhiều chữ nghĩa vừa đủ dùng để đọc một số binh thư còn phần lớn là nhờ vào tài võ nghệ xuất thân. Chính sách của các triều đại cũng thường tỏ ra trọng văn khinh võ. Do đó, "các võ quan thường không được người ta tôn trọng bằng quan văn, cho nên những người giỏi văn học thường không tu giảng võ thuật, thành trong ngạch quan võ rất ít người văn võ song toàn" (9). Thực ra, trong những giai đoạn quốc gia hưng thịnh, chẳng hạn như thời Lê Thánh Tông (1460-1497), võ nghiệp rất được trọng vọng "Tinh thần thượng võ thuở đó được lên cao do sự khuyến khích của triều đình nên có cả các vị văn quan xuất thân khoa bảng cũng xin đổi sang võ chức" (10). Nhưng đây chỉ là họa hoằn. Còn phần lớn các quan võ không được trọng vọng bằng quan văn:
Chính cái ý thức trọng văn khinh võ đó đã tạo nên cái ý thức chung trong quần chúng là xem thường giới võ biền. Để đối phó lại thái độ khinh bạc của quần chúng đối với giới võ biền, người lính phải tự mình tạo cho mình một giá trị mà đôi khi nó bộc lộ cái tinh thần hãnh tiến của cả một giới người:
Chiến tranh là một tai họa thảm khốc của con người do chính con người gây ra: Những cuộc chiến tranh chống lại mộng xâm lăng cuả người Trung Hoa. Những cuộc chiến tranh của các triều đình Việt Nam đem quân thôn tính lãnh thổ Chiêm Thành. Nhà Mạc cướp ngôi của nhà Lê gây ra cuộc chiến tranh dai dẳng giữa 2 phe Nam Bắc Triều. Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài với chúa Nguyễn ở Đàng Trong gây ra những cuộc chiến tranh thảm khốc lấy con sông Gianh làm ranh giới. Rồi biết bao nhiêu cuộc nổi dậy của đám dân bị áp bức bị triều đình phong kiến cho quan quân đi đánh dẹp. Nguyên nhân của chiến tranh vẫn là do tham vọng của con người. Sự thực lịch sử đã chứng minh điều đó. Thế nhưng, dưới mắt nhìn của người dân thấp cổ bé miệng, họ không dám quy trách cho bất cứ một thế lực nào của con người. Họ không muốn mang cái vạ tày đình vào thân như tù đày, thậm chí đến mất cả sinh mạng. Thế nên, họ chỉ còn biết đổ riệt cho ông Trời, một thế lực siêu nhiên đã có thể sinh họa tác phúc cho con người:
Hay:
***
Trên đây là những nét phác thảo về chân dung của người chiến binh thời xưa qua những vần ca dao còn lưu lại trong dân gian. Chắc chắn đây là bức chân dung không hoàn hảo, tuy nhiên, dù có không hoàn hảo, bức chân dung của người chiến binh đó cũng đã để lại trong tâm khảm người dân Việt những tình cảm thương yêu nồng nàn và lòng biết ơn sâu sắc, bởi vì, qua hơn bốn ngàn năm làm nhiệm vụ bảo vệ đất nước, hàng ngũ chiến binh đó đã phải hy sinh bao nhiêu máu xương để tài bồi cho nền Độc Lập của Tổ Quốc Việt Nam.
Đào Đức Nhuận
Ghi chú: