Dẫn Nhập
Thấy các ngài quan “đỉnh cao” XHCN Việt Nam sao người nào người nấy cũng phương phi, béo tốt, mặt nung núc, cổ có nọng trong lúc dân chúng thì ốm trơ xương tui lấy làm lạ. Chợt nhớ lại lời dạy của Bác và Đảng: “Cán bộ là công bộc, là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân là chủ”. Thì ra ở nước “văn minh vạn lần hơn tư bản”, “người chủ” tốt quá, hy sinh, chăm lo cho “người đầy tớ” đầy đủ, giống như chăm nuôi Heo, lo lắng bảo dưỡng từng ngày nên “con” nào cũng mập mạp béo tốt. Nhiều khi chúng còn “cắn” lại mà chủ cũng âu yếm vuốt ve. Không như tụi chủ “tư bản bóc lột” chỉ cho công nhân đủ tiền ăn uống, mua xe, mua nhà (nếu biết tằn tiện), chi phí bảo hiểm sức khoẻ… thôi. Đúng là chưa có một đất nước nào tốt đẹp và lạ lùng như đất nước XHCN VN. Thấy hứng thú quá, tôi vội vàng “bóp đầu tàu hũ” của mình, “động não” nhân đầu năm Kỷ Hợi bàn về Heo Lợn tặng các bạn cho vui.
Thơ rằng:
Quan Chức
bản mặt đứa nào đứa nấy
nung núc như mặt lợn nái
lợn xề
cổ có nọng
đồ mặt mâm
đầu chày đít thớt
bọn thiến heo, thiên gà, thiến chó
đánh lừa toàn dân
bán luôn cả lòng yêu nước
tình dân tộc
bọn sai nha của Trung Quốc
bọn “nhai chó cả lông
nhai hồng nguyên hột“
bọn mộc tồn chết?
làm tay sai cho Hoa Lục (Chu Vương Miện)
Xin Lỗi Dân Thủ Thiêm Ư? Chưa Đủ
Chính quyền xin lỗi ư? Chẳng có ai tin
Muốn dân tin thì làm ơn cụ thể
Làm ơn lôi các thủ phạm tàng hình
Núp trong biệt phủ, lâu đài vô số kể
Dân sẽ chỉ đích danh bọn tham quan quyền thế
Không cần trò chơi xin lỗi lập lờ
Dân cần tử hình bọn mặt heo bụng phệ
Hơn là lời xin lỗi vu vơ! (Bùi Chí Vinh)
Mời các bạn vào chuyện:
Phần I
Heo: Biểu Tượng, Ca Dao Tục Ngữ
Vài Điều Về Chữ Heo / Lợn
Tên gọi: Lợn, heo, trư, hợi, ỉn, thỉ…
Danh pháp khoa học là Sus, thuộc họ Lợn (Suidae)
Việt Nam phân biệt các loại heo – lợn như: Lợn lòi (lợn rừng), lợn sề (lợn đẻ nhiều lần), lợn nái (lợn nuôi để đẻ), lợn sữa (lợn con còn bú sữa mẹ), lợn bột (lợn mới lớn nhưng còn non), lợn tháu (lợn nói nhiều), lợn cấn (lợn đực nuôi làm giống), heo lang (heo đen có xen đốm trắng), heo voi (heo nhà loại lớn con), heo bông (heo đốm đen trắng lẫn lộn), heo nưa (heo vàng mỡ).v.v..
1. Ý nghĩa biểu tượng
Con lợn hay con heo là loài vật đã gắn bó lâu đời với con người và xung quanh đó là nhiều câu chuyện trong văn hóa đại chúng về con lợn. Trong văn hóa, con lợn cũng được cọi với nhiều tên như con heo, chú ỉn, trư, hợi. Trong văn hóa phương Đông, lợn đứng cuối cùng trong 12 con giáp (Hợi) và cũng đứng cuối cùng trong lục súc.
Lợn biểu trưng cho sự phồn thực, tính dục và sự nhàn nhã sung túc. Người ta còn dùng hình ảnh con heo đất như là một biểu tượng về tài chính. Ngoài ra, thủ lợn (đầu heo) là một món sính vật quan trọng trong một mâm cúng ở những buổi lễ long trọng và lễ nghi của người dân Việt Nam.
Tuy nhiên, đối với Việt Nam, dù được xem là biểu tượng của sự may mắn và trù phú như thế, con heo trong dân gian Việt Nam cũng mang nhiều hình tượng tiêu cực: Nói đến heo là người ta nói đến tính lười biếng (lười như heo), ham ăn, bẩn thỉu, và ngu (ngu như heo) ngoài ra còn hình tượng nhục dục (phim con heo).
Trong văn hóa dân gian Việt Nam, con lợn được thể hiện qua các bức tranh dân gian Đông Hồ, hình ảnh con lợn hiện hữu trên tấm lịch tường gia đình để thiể hiện sự sung mãn, phồn thực, vui vẻ hạnh phúc. Con lợn trong quan niệm văn hóa cổ truyền thuộc dòng Âm, ôn hòa nhã nhặn, sinh nở đầy đàn nên yếu tố phồn thực được đề cao trong loại tranh dân gian, chúc tụng năm mới gặp nhiều may mắn, con cháu đông vui, phúc lộc. Bức tranh lợn đàn là biểu tượng của sự sung túc, no đủ, phồn thực.
Trên mình lợn có vòng khoáy Âm – Dương ngụ ý phát triển, sinh sôi nảy nở, bức tranh còn thể hiện con lợn mẹ trắng xóa mắt lim dim lờ đờ, mõm tũm tĩm, năm con lợn con, con xanh, con đỏ, con trắng, con tím lúc nhúc cả dưới chân. Hình ảnh lợn Cấn sắc nét nhất là trên tranh Lợn ăn lá ráy, Nghệ nhân Đông Hồ đã quan sát kỹ con lợn phàm ăn, đang sục mõm vào máng, cành lá ráy như động đậy, ước lệ.
Ở vùng đất thuộc hạ nguồn sông Hậu, người Khmer vẫn cho rằng heo năm móng và heo ba giò là những cốt tinh lang thang của người đầu thai, nếu trong nhà có một con heo như thế thì cũng đồng nghĩa với việc nhà ấy gặp những chuyện tai ương khủng khiếp, lục đục chuyện gia đình và người ta tìm mọi cách để tống khứ. Tại Chùa Dơi còn có tên gọi khác là chùa Mã Tộc [*] ở tỉnh Sóc Trăng, là nơi chốn những con heo đặc biệt này cư ngụ, cả phần xác lẫn phần hồn. Người Khmer rất sợ heo năm móng, heo ba giò, tức là heo có tới năm móng thay vì bốn móng như bình thường. Còn heo ba giò không phải thiếu một giò mà ba giò kia một màu lông, giò còn lại có màu lông khác, ví dụ một chân có màu đen, ba chân có màu trắng. [Theo Nguyễn Cung Thông]
Tổng hợp tư liệu từ sưu tầm thực tế ở chùa Dơi cho biết về heo năm móng, ba giò như sau:
Bà con người Khmer rất sợ heo năm móng, ba giò (không phải thiếu một giò mà ba giò kia một màu lông, giò còn lại có màu lông khác, 1 đen 3 trắng chẳng hạn. Không rõ dựa vào đâu mà người ta tin rằng, những con heo đó là cốt tinh của người, nó là linh hồn của con người đầu thai. Những người đó vốn gây nhiều tội ác, nên bị đày làm kiếp heo.
Chính vì mang linh hồn của kẻ ác, nên những gia đình nuôi nó sẽ phải gặp tai họa. Người Khmer tin rằng, gia đình nào nuôi phải con heo này thì sẽ gặp bất hạnh, gia đình lục đục, vì bị cốt tinh của con heo quấy phá. Tuy nhiêu, nếu giết heo thì cả nhà sẽ phải đền mạng. Chính vì thế, gia đình nào nuôi phải heo năm móng, ba giò, thì phải nuỗi dưỡng và chăm sóc nó đến già. Khi heo chết, phải mai táng cẩn thận như người, mới mong thoát kiếp nạn.
Rồi cũng từ những gia đình đen đủi nuôi phải heo năm móng, ba giò, đã nghĩ ra phương thức giải hạn cho mình bằng cách đẩy “heo quái thai” cho nhà chùa nuôi. Họ tin rằng, nhà chùa là nơi thích hợp, có thể nâng đỡ linh hồn tội lỗi, bị đày làm kiếp heo. Khi con heo quái thai được nuôi dưỡng, được nghe kinh Phật sám hối thì không phá phách con người nữa và cũng vì thế mà hóa giải được tai họa. Vậy là nhà chùa tự dưng biến thành “nơi nuôi dưỡng heo quái thai”. (Chuyện ở chùa Dơi – Hai Miệt Vườn)
Heo trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt, danh từ “heo” có nghĩa chánh là con heo, hay con lợn. Từ đó người ta thường nói thịt heo, heo quay, heo sữa, heo nái, heo rừng; hay bánh lỗ tai heo, vân vân… Trong thành ngữ Việt Nam chữ “heo” rất thông dụng qua những câu nói bình dân như “nói toạc móng heo”, “ở dơ như heo”, “mập như heo”, “làm biếng như heo”, thậm chí “ngu như heo” (nói chung bao nhiêu cái xấu trên đời đều đổ lên đầu con vật hiền lành và tội nghiệp nầy!). Trong tiếng Mỹ cũng có những thành ngữ thông dụng như “to make a pig of oneself” (ăn phàm, ăn tham, ăn uống thô tục như heo), “to buy a pig in a poke” (mua vật gì mà không được trông thấy hay biết rõ, tiếng Việt mình hay nói là “mua trâu vẽ bóng”), hay “pigs might fly” (biết đâu một chuyện thần kỳ hay phép màu có thể xảy ra)
— Heo: Diễn tả khí hậu hanh khô, thường vào dịp chuyển tiếp giữa thu sang đông.
“Heo đường leo lên ngọn” [Tục ngữ]
— Heo may: Dịch thoát chữ “Lý Phong”, nghĩa là: “Gió cá chép”. Theo truyền thuyết, vào mùa thu, cá chép theo nước sông về hội ở Vũ Môn để chuẩn bị hóa thành rồng. Gió vào mùa này gọi là “Gió cá chép”.
Trong văn chương và nhất là âm nhạc Việt Nam chúng ta thường nghe “gió heo may”:
“Gió heo may đã về, chiều tím loang vỉa hè, và gió buông tóc thề…” [Nhìn Những Mùa Thu Đi – Trịnh Công Sơn]
hay:
— Heo hút: Hẻo lánh và hiu quạnh. “Đi xuống lũng sâu heo hút” [Huy Cận]. Chữ nầy đồng nghĩa với “đèo heo hút gió”. Tuy nhiên trong đối thoại thực tế người ta hay nói “Ở nơi đèo heo hút gió”, chớ ít ai nói “Ở nơi heo hút”.
— Heo hắt (desolate): Cảnh vật heo hắt (hoang tàn, tiêu điều). Sống cuộc đời heo hắt (cô độc).
Chữ “heo” sử dụng trong heo heo, heo may, heo hút, heo hắt hoàn toàn không có một sự tương quan (correlation) nào với “con heo” cả. Đây chính là một trong những tính cách đa dạng và phong phú của tiếng Việt: Chỉ cần đổi một con dấu, hay xử dụng trong trường hợp khác nhau thì ý nghĩa của nó hoàn toàn thay đổi. [Heo May – Trung Tâm Việt Ngữ Văn Lang]
Chữ Việt tuyệt với như ta vừa xét vậy mà có ngài tiến (hay lùi) sĩ Bùi Hiền đòi thay đổi nó bằng loại chữ “trời ơi” nào đó, ngu chưa?
— Kinh nghiệm xã hội và truyền thống dân tộc ta gắn liền với hình ảnh con lợn qua ca dao tục ngữ như:
‘Mẹ em tham thúng xôi chiêm
Tham con lợn béo tham tiền hoa viên’ (Việt Nam Tự Điển, 1954)
‘Con lợn trắng mắt thì nuôi
Con người trắng mắt là người bỏ đi’
“Nói toạc móng heo”: Làm mất cái vỏ bề ngoài, làm rõ cái bên trong.
Phát âm Heo trong tiếng Anh
Heo là tiếng Việt, phát âm nghe giống tiếng Anh “hell”
Hell (noun): Địa ngục.
Thơ rằng:
Chữ heo liền với chữ “hell” một vần
Hãy ăn đi lũ quan ôn!
Ăn cho tàn mạc nước non dân nghèo
Ăn đi rồi chết xuống “hell“! (Nguyên Lạc)
…
Nguyên Lạc
………………
Tham khảo: Thảo Trường, Chu Vương Miện, Nguyễn Viết Tân, Nguyễn Cung Thông, Lý Lạc Long, Wikipedia, Trung Tâm Việt Ngữ Văn Lang, Wikipedia, Facebook…
Ghi chú:
[*] Mã Tộc đọc trại từ Mahatup: Mahatup là trận kháng cự lớn (Tup: kháng cự; Maha: lớn). Theo người Khmer, nơi đây đã diễn ra một trận đánh ác liệt của phong trào nông dân nổi dậy chống nhà cầm quyền ngày xưa. Ngoài ra dân gian còn gọi là chùa Dơi bởi vì trong chùa này có nhiều dơi. (Nguyên Lạc)
Phần II
Heo: Trong Đời Sống, Văn Chương
Phân Biệt Heo Và Lợn
– Sự khác biệt:
Con lợn ăn ngô.
Con heo ăn bắp.
Con lợn đóng phim thiếu nhi: Hiệp sĩ lợn.
Con heo đóng phim người lớn: Phim con heo.
Miền Bắc nói đàn ông háo sắc là lợn nọc.
Miền Nam nói đàn bà lang chạ là heo nái.
– Giải thích hai chữ Lợn Heo:
Để giải thích hai chữ Lợn Heo, tôi xin dẫn ra bài viết của nhà văn, thi sĩ lão thành Chu Vương Miện:
[Tôi hay có thói quen là tìm tòi những danh từ thường dùng hàng ngày mà nghĩa đôi khi không được rõ. Hôm trước được nghe người em bên vợ giải thích, con Lợn là tiếng ngoài bắc, thường ăn củ sắn, ăn trái bắp còn con Heo trong miền Nam thì ăn củ mì và trái ngô, vậy ra là con Heo và con Lợn khác hẳn nhau, tự điển ngoài Bắc thì phận biệt con Lợn là con Lợn Ỉn, là một thứ lợn truyền thống có nguồn gốc từ Heo Mọi (nuôi tốn cơm cũng chỉ được 50 kilô là cùng – từ sáu tháng đến 1 năm), còn con Heo có nguồn gốc từ ngoại quốc thì nuôi từ 4 tháng đến 6 tháng cân được 1 tạ (100 kg). Chúng tôi không bàn cách nuôi Lợn Heo ở bài này mà chỉ đi tìm nguyên nhân nào, con Lợn đi từ ngoài Bắc vào Trung rồi vào Nam, mà từ tên cúng cơm là Lợn chuyển thành Heo lúc nào không biết. Thực ra nếu danh từ nào gặp khó khăn không hiểu thì mang tra Tự Điển, nếu cuộc đời chỉ giản dị “giản đơn và giản kép” như thế thì khỏe quá, Tự Điển thì chỉ giải nghĩa đại khái và chung chung, coi cũng như là không coi, thế rồi một hôm coi tivi, mục “Bóp Méo Vo Tròn” “nghệ sĩ Trần Thiện nguyên là một ảo Thuật Gia, một Mc, một ca sĩ thuộc vào loài kiêm nhường, thường chỉ trình diễn nơi nào có Nhang Đèn” nói nôm na là nơi nào hát Chùa và Cộng Đồng là có anh. Ở Chương Trình “Bóp Méo Vo Tròn” nghệ sĩ Trần Thiện giải thích Lợn Heo như sau:
- Thực ra là như thế này, năm 1802 vua Gia Long nhà Nguyễn thống nhất sơn hà, (không có thống nhì) có nhiều vị quan văn và võ theo vua Gia Long từ thủa hàn vi gốc gác từ ngoài miền Bắc nhưng vào Nam làm quan, chữ Việt Nam thì thống nhất, nhưng tiếng nói Việt Nam thì thống nhì, đôi khi nói ra phải còn người diễn giải hoặc thông dịch thì người nghe mới hiểu là nói cái gì ? ý nghĩ ra làm sao? đa số thời bấy giờ các vị quan này đều được gọi là Quan Lớn, nhưng dân chúng bá tánh không ưa vì các quan xấc xược ngang tàng coi dân chúng miền Nam như rơm rác nên nói giọng trại ra lớ lớ là Quan Loợn, dần dà thành quen “Quan Lợn”. Mấy vị quan gốc Bắc Hà nghe vậy thấy kỳ cục quá nghe không lọt lỗ tai, mỗi lần nghe dân ai mà kêu mình là Quan lợn là a lê hấp sai lính hổ bôn đè ra sân Huyện sân Phủ, tẩm quất cho từ 20 hèo đến 50 hèo, sau đó thì bá tánh kêu Quan Lớn là quan Hèo.
“Hèo là Gậy tức là quan chỉ dùng hèo mà đánh dân. Hèo từ từ chuyển thành Hèoo, rồi khi không chuyển thành Heo lúc nào không biết.
Chúng tôi thấy cách lý giải trên rất hợp tình và hợp lý (logic) nên ghi lại nơi đây làm tư liệu tham khảo.
Ai có thắc mắc thì cứ tìm nghệ sĩ Trần Thiện mà chất vấn.]
(Lợn Heo – Vĩ văn của Chu Vương Miện)
Vài Chuyện Liên Quan Đến Heo
Sản Xuất Xúc Xích
Chuyện rằng:
Có một ông thợ sản xuất xúc xích, sau một thời gian tìm tòi, ông sáng chế ra được cái máy chỉ cần bỏ con heo vào là sẽ cho ra xúc xích.
Một hôm, đứa con ngồi xem ông làm và hỏi:
— Sao ba không chế ra cái máy bỏ khúc xúc xích vào sẽ cho ra con heo, thì mình sẽ bán được nhiều tiền hơn?
Suy nghĩ một chút, ông trả lời:
— Ba muốn chứ, nhưng cái máy đó mẹ con giữ bản quyền rồi.
Thằng bé hỏi tiếp:
— Thế sao ba không hỏi mượn của mẹ để xài?
— Có chứ, con heo con! Thôi đi chơi đi… để ba làm việc tiếp.
(Theo Lý Lạc Long)
Người Lợn
Thích phu nhân, hay còn gọi Thích Cơ, là phi tần rất được sủng ái của Hán Cao Tổ Lưu Bang (256 TCN – 195 TCN) người sáng lập ra nhà Hán.
Sau khi Cao Tổ băng hà, Thích Cơ cùng con trai là Như Ý bị Lữ Thái Hậu (vợ Lưu Bang) ra tay tàn sát rất độc ác, nổi danh trong lịch sử.
Năm Hiếu Huệ thứ 2 (194 TCN – Huệ Đế là con của Lưu Bản và Lữ Thái Hậu) mùa đông, Lữ Thái Hậu bắt đầu trả thù Thích phu nhân:
— Sai người mang thuốc độc đến ép Như Ý (con của Thích phu nhân và Lưu Bang) uống chết.
— Sai người chặt chân tay Thích phu nhân, móc mắt, đốt tai, bắt uống thuốc thành câm, cho ở trong nhà tiêu (nhà vệ sinh) gọi đó là “Nhân Trư”, nghĩa là con người lợn.
Sau mấy hôm, thái hậu cho gọi Huệ Đế vào để xem “Nhân Trư”. Hán Huệ Đế thấy, ngạc nhiên bèn hỏi, biết đó là Thích phu nhân, liền khóc rống lên. Bị ám ảnh, ông mắc bệnh và không lâu sau thì chết yểu khi mới 22 tuổi.
Heo Trong Chuyện Tây Du
Trư Bát Giới, một nhân vật trong Tây du ký của China, là một vị thần trên thiên đình có hình dạng nửa người nửa lợn.
Trư Bát Giới là một trong ba vị đồ đệ đã phò tá Tam Tạng đi thỉnh kinh ở Tây Thiên trong tiểu thuyết Tây du ký. Tam Tạng đặt tên là Bát Giới, với ý nghĩa là “tám ranh giới bị kiềm chế” (8 giới cấm): — Không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói bậy, không uống rượu, không trang điểm, không nằm ngồi giường quá rộng, ăn chay – để nhắc nhở Bát Giới phải luôn biết tu sửa mình.
Trong tiểu thuyết, Trư Bát Giới là nhân vật có hình hài như một quái vật gớm ghiếc, “nửa lợn, nửa người”:
Bèo cám bê bết quanh mồm
Tai như chiếc quạt, mắt tròn vàng hoe
Răng nanh nhọn hoắt gớm ghê!
Mõm dài há ngoác đỏ khè đến kinh…
Bát Giới, giống như các đồ đệ còn lại của Đường Tăng, cũng có các phép thuật siêu nhiên. Ông ta có tổng cộng 36 phép biến hóa thần thông. So với Ngộ Không, Bát Giới và Sa Ngộ Tịnh (Sa Tăng) giỏi chiến đấu ở dưới nước hơn.
Đến cuối tiểu thuyết, tất cả các nhân vật chính, bạn đồng hành của Bát Giới đều đạt đến mục đích cuối cùng của mình, tức là trở thành Phật hoặc La Hán; chỉ riêng mình Bát Giới là không, bởi vì dù nhiều cải biến, Bát Giới vẫn còn quá nhiều ham muốn. Vì vậy, Bát Giới chỉ được phong là “Tịnh đàn sứ giả” với phần thưởng là công việc: “Lau dọn bàn thờ”, nơi mà Bát Giới có thể ăn thỏa thích những hoa quả thừa trên bàn thờ. (Wikipedia)
Trư Bát Giới tượng trưng cho những bản năng rất vật dục và tầm thường nơi con người: Tính tham ăn, tham ngủ, tham của, tham sắc và tham nịnh nọt cho được lợi về mình. Bát giới rất ham ăn, ăn nhiều chừng nào cũng được, ăn theo kiểu thực bất tri kỳ vị (không biết mùi mẽ món ăn ra sao). Khí giới của họ Trư vì là đinh ba – một chiếc cào để vơ vào cho nhiều, cho vừa lòng tham.
Chăn Nuôi Heo
Heo đôi khi được dùng để ví với người. Winston Churchill nói rằng: “Con chó ngước lên nhìn chúng ta, con mèo nhìn xuống chúng ta, còn con heo thì coi chúng ta là ngang hàng”.
Ở Á Châu thì con heo rất quý, thân thiết gần gũi. Người ta nói trong chữ Nho, hình như chữ “gia” là nhà trên có chữ “phụ”, dưới có chữ “thỉ“. Nghĩa là căn nhà thì có đàn bà (phụ) và một con heo (thỉ). Nếu thiếu một trong hai thứ này thì không thành một gia đình được.
Nuôi heo bởi vậy là một nghề cao quí, cho dù nuôi heo thịt hay heo nái, thậm chí là nuôi anh heo nọc.
Các món nhậu về heo thì các bạn quá rành rồi, tui không dám “múa rìu qua mắt thợ”, chỉ “loạn bàn” vài chuyện có liên quan đến heo thôi.
1. Heo nọc
Trong dân gian, có nhiều chàng “thả dê” chọc ghẹo các nàng “nham nhở” quá, khiến các nàng chưởi “đồ heo nọc”. Vậy heo nọc có nghĩa gì? Muốn hiểu rõ nghĩa đầy “ấn tượng” này ta phải tìm hiểu về heo nọc.
Heo nọc là loại heo dùng phối giống cho việc chăn nuôi heo nái.
Heo nọc: – Heo đực chuyên dùng để phối giống (bỏ nọc) heo nái.
Heo nái: – Loại heo cái nuôi để sản xuất heo con.
Giống như con người, heo cũng phải làm bổn phận “duy trì nòi giống”.
Từ khi rời bỏ môi trường hoang dã, được con người thuần dưỡng, heo đực nuôi cung cấp thịt khi lớn lên đều bị “thiến”, chức năng duy trì nòi giống chỉ được trao cho một số con heo được chọn lựa kỹ, mạnh khỏe, “xung độ” gọi là “heo nọc”.
Thơ rằng:
Trăm năm trong cõi người ta
Làm thân heo nọc sướng cha một đời
Dù cho chữ nghĩa bằng mười
Đâu bằng heo nọc được người đón đưa (Nguyên Lạc)
2. Bỏ nọc
Sau đây, mời bạn nghe Nguyễn Viết Tân kể chuyện dẫn heo nọc đi “bỏ nọc”.
[…Mày đừng tưởng cứ dẫn chàng Nọc tới rồi thả vô chuồng, mặc kệ nó làm ăn ra sao thì làm! Vất vả cho ông chủ lắm chứ, chả phải chuyện chơi đâu.
Trước khi lên xe Lam, tao thảy cho chàng hai hột gà sống - mà thời ấy chính tao cũng tiếc tiền không dám làm la-coóc mà ăn – Cái miệng nó bình thường nhễu nhão là thế, mà nó táp hai hột gà gọn bân, đố có rớt ra ngoài giọt nào.
Xe vừa ngừng là thằng đệ tử có cái mũi Trư Bát Giới ấy thính không thể tả. Nó biết ngay cái nhà nào có heo nái đang động đực, đi xâm xâm vô nhà người ta rồi lao tuốt ra đằng sau, thân thể nặng nề thế mà phóc một cái là nó đã nhảy vào chuồng.
Khi con nái mới động đực, thì cái “hoa” đỏ au và sưng lên, nó kêu rống và ủi phá chuồng dữ lắm. Vậy mà khi con nọc vào, nó lại cắn, lại chạy xà quần… làm cho anh kia chả làm ăn gì được sất.
Người nuôi heo có kinh nghiệm phải đợi vài ngày sau, khi cái hoa đã héo, biến thành màu đỏ bầm và có nước nhờn rỉ ra mới cho “nhảy”. Lúc đó con cái mới chịu đứng yên, mắt lim dim, tai cụp xuống, cái đuôi ve vẩy quẹo qua một bên để phơi bày của nả.
– Mày hỏi ông chủ heo nọc “cực” là cực làm sao hả?
Là bởi vì khi con nọc còn nhỏ, mà con nái xề lớn quá, anh chủ phải kê ghế, phải bồng thằng đệ tử mình lên thì nó mới ngang tầm “tác xạ” cho trúng mục tiêu, chứ không thôi nó khóc ngoài quan ải thì cũng xôi hỏng bỏng không.
Nhưng khi con nọc đã quá to, mà con nái mới động lần đầu, nếu mà con đực chồm lên thì với sức nặng đó, có thể nó đè con nái gãy lưng hoặc gãy hai chân sau, mình phải lòn một cái bao bố dưới bụng con nái, rồi chị chủ nái một bên, mình một bên, rinh con nái cho chổng mông lên cao, canh sao cho vừa tầm thì mới hoàn thành tốt công tác có lợi cho dân cho nước ấy.
Lạ lắm, con nái mới bị phủ nọc lần đầu, khi cái khoan kia xoáy vào, nó cũng đổ máu y như người vậy. Cái khoan sút ra rồi, con nọc thường chạy chung quanh chuồng một vòng, rồi lại hớn tớn nhảy lên lần nữa, lần này cũng lâu khoảng 15 phút.
Hèn chi người Pháp cứ cho rằng cu-son (cochon) là dâm hạng nặng trong các loài vật.” (Nguyễn Viết Tân – Việt báo)
3. Thiến heo
Ai nuôi heo để bán làm thịt phải gọi thợ đến thiến thì heo mới ăn no chóng lớn, không giở trò dậm dật mất sức. Mời các bạn dọc trích đoạn sau đây của Trần Quán Niệm:
[…Nhưng dù có bênh vực thế nào đi nữa thì heo vẫn bị mang tiếng xấu về địa hạt ái tình. Thật không oan, vì đến mùa động tình thì heo thật là quá xá. Nó chạy rần rật trong chuồng, kêu rống lên, đôi khi chuồng thấp, nó còn phóng ra đi tìm đực cho bằng được. Chẳng thế mà người ta thường nói “sổng con heo lòng” hay “dở trò con heo” hoặc “phim con heo” và gọi những ông già sồn sồn ưa “thả dê” là “đồ heo nọc”
Cũng vì thế mà ở VN nhà ai nuôi heo để bán làm thịt, phải gọi thợ đến thiến hết bầy heo thì heo mới ăn no chóng lớn, không giở trò dậm dật khi đến tuổi trưởng thành. Tôi còn nhớ mãi hình ảnh anh thợ thiến heo trong vùng tôi ở, một vùng nửa tỉnh nửa quê. Anh này người mảnh khảnh, mang vẻ phong lưu tài tử kiểu đồng quê, tóc búi, mặc áo bà ba lụa chải chuốt, thường tụ họp bạn bè, đàn ca vọng cổ thâu đêm. Trưa trật, trưa trờ, mới tà tà dạo ra đường hành nghề. Đồ nghề vỏn vẹn là một con dao nhỏ, bọc trong túi và cuộn chỉ. Trước khi khởi hành, anh ta bứt một chiếc lá tre, đặt trong miệng, thế mà thật tài, anh ta thổi ra tiếng lanh lảnh như tiếng sáo.
Đi thung dung trong xóm, vui đâu thì ngừng lại nói ba điều bốn chuyện, rồi lại đi tiếp, nhà ai có heo cần thiến, khi nghe tiếng sáo, sai con nít kêu vào. Chủ nhà bắt từng chú heo choai choai ra khỏi chuồng đè xuống đất. Bàn tay anh ta dịu nhễu, thành thạo dùng con dao sắc lẻm, rạch một đường ngắn ngang hông heo, rồi móc ra một vật đo đỏ, nhỏ như cái cúc áo, gọi là “hoa khế”. Anh ta cắt, vứt đi, ấn ruột heo vào như cũ, rồi thoăn thoắt khâu vài đường chỉ ngay chỗ cắt. Thế là xong. Lợn được thả vào chuồng, con khác được bắt ra. Tôi thấy trước khi hành nghề anh ta chỉ rửa tay qua loa bằng nước lạnh, chẳng cần alcohol để sát trùng, thế mà chẳng con nào bị chết vì nhiễm độc. Chúng chỉ biếng ăn cỡ 1 hay 2 ngày là đâu lại vào đó, vục đầu vào máng, ăn cám như điên, mập tròn, chờ ngày bị ngả thịt… ] [Phiếm Luận Về Heo – Trần Quán Niệm]
4. Ngoại sử Việt Nam
Nghe đâu, trong ngoại sử Việt Nam có đề cập đến một ông, vì liên hệ đến heo nọc (hoạn lợn: thiến heo) mà leo lên đến chức vua “đỉnh cao trí tuệ”, sắp sửa đưa dân tộc đến “Xuống Hố Cả Nước” đó, ghê chưa!
Ông vua nầy sẵn nghề đã Thiến luôn các ông “Tri Thức” XHCN và nhân dân:
— Các ông “Tri Thức” XHCN học cao, Hồng hơn Chuyên nên được Đảng ban cho làm ”đầy tớ nhân dân”. Các ông “đầy tớ” này bị Thiến, (nhưng cho Ăn) nên quên đi nhiệm vụ tổ tiên, tiền nhân giao phó: — Bảo vệ nòi giống, bảo về quê hương. Chỉ còn lại bản năng Ăn, tự do Ăn, cúi đầu Ăn của nhân dân (tham nhũng), giành nhau ăn… khiến nhân dân, đất nước “tàn mạc”. Vì Ăn nhiều nên các ông bệ vệ, đẫy đà, phương phi, “đẹp trai”; bản mặt ông “đầy tớ” nào cũng nung núc, cổ có nọng… giống như ông Trư. Không tin thì nhìn mặt các ông quan ôn “cờ lờ mờ”, “mát dzê inh” thì rõ. Giống như bài thơ Quan Chức đã ghi trên.
– Về phần người “chủ đất nước” (người dân) thì vừa bị Thiến vừa bị Cấm Ăn, bỏ đói. Kết quả là người “chủ” luôn kinh sợ, nghi ngờ nhau. Đói ăn nên trơ xương, suốt ngày chỉ lo tìm cái ăn (vì bị kiểm soát bao tử) khiến Đảng dễ dạy bảo.
Đó, cái thời dưới trào ông vua hoạn lợn “vĩ đại” này đó, nghĩ lại mà khiếp!
5. Chuyện chăn heo của bác tù “cải tạo” già
Ở bài viết trước tôi đã kể bạn nghe về chuyện “heo nọc” Lao Ái, với “của quý” quá khổ, đã làm Thái Hậu mẹ Tần Thủy Hoàng mê mẩn, được ân sủng quyền chức, tiền bạc. Nếu không vì giàu sang phách lối, ức hiếp dân lành, hãm hiếp gái tơ… thì đâu bị tru di, suốt đời sẽ sống kiếp heo nọc sung sướng. Ở đời, những tên tiểu nhân, nhờ tài mọn leo lên địa vị “ăn trên ngồi trốc” thường hành xử vô nhân.
Mời các bạn đọc chuyện heo nọc đầy “ấn tượng”, khiến ta “miệng cười mà lệ rơi rơi” của cố nhà văn Thảo Trường, ông là một trong những người “học tập cải tạo” lâu nhất trong các “Đại Học Máu” (từ của nhà văn Hà Thúc Sinh: Trại cải tạo), cả trong Nam lẫn ngoài Bắc, tổng cộng 17 năm mới “tốt nghiệp”!
[….Anh có uy tín với cô cán bộ nên xin cho cái bác tù già yếu bệnh tật chức nấu cám heo. Ông lão được gọi từ ruộng khoai về, sau khi xem giò xem cẳng, cô cán bộ bèn thuận cho bác già ở tại nhà lô, chuyên phụ trách nấu cám cho heo ăn và hằng ngày phải kín nước rửa chuồng, tắm cho đàn heo sạch sẽ theo đúng vệ sinh chuồng trại. Công việc cũng không phải là nhẹ nhưng được cái chỉ loanh quanh trong nhà lô, đỡ mưa, đỡ nắng, và đỡ mất sức vì cái cuốc nghị quyết 8.
Công việc chăn heo của bác già không được lâu vì bác phạm sai lầm nghiêm trọng. Một hôm vợ trại trưởng dắt một con lợn cái đến đội chăn nuôi xin heo nọc nhảy đực. Chuồng lợn có một con heo nọc rất lớn, thuộc giống tốt. Cô phó tiến sĩ bảo ông lão mở cửa chuồng cho con cái của trại trưởng phu nhơn vào. Hai người đàn bà cầm gậy đứng ngoài chuồng lùa con cái đến gần con nọc. Cũng chẳng cần phải đợi lâu, anh heo đực vốn đang sung sức lại thiếu cái lâu ngày, nó sấn sổ nhào tới gầm lên như cọp, hai chân trước chồm lên lưng lợn của trưởng trại phu nhơn khiến con cái ngã dúi dụi muốn bỏ chạy, hai người đàn bà dùng gậy ấn đầu con cái xuống bắt nó khuất phục, bà trại trưởng còn dịu dàng vỗ về con heo của mình:
– Ngoan đi con, chịu khó tí đi con.
Cô phó tiến sĩ thì thét người tù già:
– Anh vào hẳn trong chuồng phụ với con cái bắt nó phải quì xuống… chổng mông lên cho con đực nó dễ nhảy.
Nhớ đến lời căn dặn của “thằng em”, nó bảo phải chịu khó nhẫn nhục, nín thở qua sông, bác già vội vã trèo vào chuồng. Con heo nọc đang ngon trớn chợt thấy người thì nổi ghen, giận dữ kêu rống lên xông tới bác già, sợ quá người lại tháo chạy, phóng bay ra khỏi chuồng. Hú vía! Người đàn bà và cô phó tiến sĩ cười ngặt nghẽo:
– Anh thua con lợn à?
Bác già gật đầu:
– Thua! Tôi thua giống lợn!
– Thế thì kiếm cây gậy, phụ với chúng tôi, ấn đầu con cái xuống cho con đực nó chơi.
Bác già đi kiếm cây gậy. Khi con nọc nhảy lên lưng con cái mà xục thì cả cô phó tiến sĩ lẫn bà trưởng trại đều nghiêng đầu xuống thấp để theo dõi xem nó đi có trúng không. Một vạt nước sền sệt vãi cả ra nền chuồng. Con cái nằm bẹp. Con nọc bỏ đi vòng quanh. Bà trại trưởng hỏi bác già:
– Anh thấy nó có vào trong không?
Cô phó tiến sĩ thì hỏi:
– Anh thấy trúng chưa?
Bác già trả lời cả hai:
– Được rồi.
Cán bộ lại nói:
– Anh cho nó uống miếng nước cho đỡ mệt.
Bà trại trưởng nói:
– Nghỉ một lát nhảy cái nữa.
Cô cán bộ khoe:
– Lợn em chỉ cần nhảy một lần là đậu.
Bà trại trưởng lại nói:
– Một công dẫn đến, cho tôi xin lần nữa cho chắc.
Cô cán bộ cười:
– Thế thì chết lợn em.
Bà trại trưởng cũng cười:
– Khoẻ thế kia, nhảy chục lần, quần suốt ngày cũng không ăn nhằm gì.
Hai người đàn bà kéo nhau vào trong nhà lô nghỉ giải lao. Con lợn cái cũng nằm bẹp một chỗ giải lao luôn. Con nọc vẫn đi vòng vòng quanh chuồng. Bác già đứng lặng thinh nhìn nó. Hình như nó đi vòng vòng như thế để tiêu khiển một sự gì đó!
Độ nửa giờ sau, hai người đàn bà giải lao bằng mấy quả chuối luộc xong, trở lại chuồng heo, quẳng cho con nọc mấy cái vỏ chuối, nói với người tù già:
– Nào, ta làm thêm lần nữa.
Bác già mở cái cửa thông giữa hai chuồng lùa con cái sang bên chuồng con nọc. Con cái đi chậm chạp, bác già dùng cây gậy đánh nhẹ vào mông đít nó. Trưởng trại phu nhơn cự:
– Sao lại đánh nó. Từ từ rồi nó sang. Anh này ác quá! Thế ngày xưa, thời quốc gia, anh cũng thúc đẩy ác nghiệt… đàn bà như thế à?
Bác tù già cứ ngớ người ra. Bác lại nghĩ tới “thằng em”, nó khuyên phải nhẫn nhục. Nhẫn nhục nhưng bác thấy nong nóng ở khóe mắt.
Cũng may lần này cả hai bên đều có kinh nghiệm, con cái ngoan ngoãn, con nọc từ tốn, cuộc tình diễn ra tốt đẹp. Thắng lớn! Thắng lợi sau lớn hơn thắng lợi trước! Càng đánh càng thắng! Tia nước phun vào trong hết, rất ít bị vãi ra ngoài. Bà trại trưởng thoả mãn thấy rõ trên nét mặt. Cô phó tiến sĩ cũng vui:
– Kể như bảo đảm trăm phần trăm. Lứa này chị nhớ để rẻ cho em một cặp đấy nhá.
Bà trại trưởng lùa lợn của mình đi ra:
– Được rồi. Tôi nhớ cô.
Bà ta cũng nói với bác già:
– Chào anh nhá.
Bác già đóng cửa chuồng rồi đi xuống bếp nấu cám. Lát sau cô phó tiến sĩ xuống đưa cho bác tù già hai quả trứng gà, cô nói:
– Trứng bồi dưỡng. Anh coi “lô”, không được đi đâu nhá, tôi đi có tí việc một lát về, “ban” có tới báo cáo là tôi đi liên hệ rau lang cho lợn ở đội nông nghiệp.
Bác già báo cáo “rõ”. Và bác cảm động. Dù sao thì cán bộ cũng tốt bụng. Trứng gà là thức ăn cao cấp trong xã hội “xã hội chủ nghĩa”, thế mà cán bộ bồi dưỡng cho bác những hai quả. Có thể là vì cô cán bộ đã thấy tận mắt bác suýt bị con heo nọc cắn nếu như không “bay” ra kịp. Nguy hiểm thế! Chết người như không chứ giỡn sao?
Nghe nói trong nấc thang cấp dưỡng ở bếp cơ quan chỉ “ban” mới được hưởng mỗi tháng năm quả trứng, cán bộ cấp dưới không có tiêu chuẩn trứng trong mức ăn. Thèm muốn thì tự đi xoay xở cải thiện. Bác già chỉ muốn được yên thân, chả bao giờ dám nghĩ đến trứng gà trứng vịt. Cầu sao có củ khoai củ sắn cầm cự độ nhật qua ngày là được. Bây giờ tự nhiên được thưởng, âu cũng là cái lộc may từ loài lợn cái, heo nọc.
Bác già thả hai quả trứng vào trong cái ca, bác chế đầy nước sôi, canh giờ cho vừa chín tròng trắng, bốc vài hạt muối, bác ăn hai trái trứng bồi dưỡng theo đúng kiến thức sách vở mà bác đã đọc xưa kia, để đạt được độ bổ béo nhất mà không có hại gì cho lá gan vốn đang rất yếu. Thiếu thốn nhiều ngày, cơ thể chứa toàn khoai sắn, vị giác lâu không được thứ gì kích thích, đưa trứng gà vào miệng, sao mà nó thơm, sao mà nó béo, sao mà nó ngậy, sao mà nó ngon? Đến thế! Cơ chứ? Hở Trời?
Bác cầm cái chổi “sể” quét lá cây trên sân mà lòng phơi phới. Lá bạch đàn vẫn rơi theo gió. Nếu ở một nơi chốn nào đó những chiếc lá rơi này sẽ rất là đẹp. Nhưng ở đây, cô cán bộ lại muốn cái sân không có lá vàng, thì quét đi, cũng là vui theo cách khác mà thôi.
Công việc xong xuôi thì cán bộ về, cô đi thẳng xuống bếp:
– Anh cho lợn giống bồi dưỡng chưa?
– Báo cáo xong hết cả. Tôi phân phối cám nấu cho các chuồng như thường lệ.
– Thế còn hai quả trứng gà?
– Cám ơn cán bộ bồi dưỡng cho, tôi đã ăn…
Cô phó tiến sĩ nhảy dựng lên, hai chân cô giậm bành bạch trên nền sân đất đã quét sạch lá:
– Tôi biết ngay mà. Ra đi một lát tôi chột dạ sinh nghi, trở về không kịp, thế anh đã… nuốt vào bụng rồi à?
– Dạ, tôi tưởng cán bộ cho tôi.
Cô phó tiến sĩ nói như hét:
– Đưa anh để anh cho vào chậu cám con lợn giống, tiêu chuẩn bồi dưỡng của nó sau mỗi lần nhảy đực. Anh ăn tranh của nó là anh bóc lột nó. Các anh bóc lột nhân dân quen rồi, bây giờ lại bóc lột của lợn nữa!
Người tù binh già ngay đơ chết đứng, lắp bắp:
– Tôi tưởng cán bộ bồi dưỡng cho tôi.
Cô cán bộ lại thé thé:
– Nó nhảy, chứ anh có… làm gì đâu mà bồi dưỡng.
– Tôi… xin lỗi…
– Xin lỗi, tư sản các anh có cái trò xin lỗi, xin lỗi là xong à? Thế còn hai quả trứng? Vấn đề là hai quả trứng chứ không phải là xin lỗi…] (Đá Mục – Thảo Trường)
Sao, các bạn thấy sao?
Lời Kết
— Theo tử vi Trung Hoa, trong 12 con giáp, người có tuổi “Hợi” là người lạc quan, nhàn hạ, không phải vội vã. Ít khi phải lo lắng về tiền bạc. Có thể là người không giầu có nhưng luôn luôn sống bằng lòng với những gì mình đang có, không bon chen mặc dù thực chất họ có rất nhiều nghị lực.
Bạn có biết cựu Tổng Thống Đài Loan Tưởng Giới Thạch, Thủ Tướng Tân Gia Ba Lý Quang Diệu, và cựu Thống Đốc California, USA Arnold Schwarzenegger có cái gì giống nhau không? Không phải là họ đều làm quan lớn, mà cả 3 người đều tuổi “Hợi.” Thật lý thú.
(Trần Văn Giang)
— Để kết bài viết này, tôi xin hầu thêm quý bạn chuyện về xem quẻ tuổi Hợi:
Người tuổi Hợi hợp với người tuổi Dậu theo quẻ “đầu gà má lợn”. Người hai tuổi này cưới nhau sẽ có nhiều khả năng thành công trong lĩnh vực kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh… nhà hàng, đồ nhậu.
***
Bài tới đây xin tạm dừng, hẹn “tái nạm” với những bài “ấn tượng” khác. Mong các bạn “Mua vui cũng được một vài trống canh”
Cung Hỷ Phát Tài! “May you have a prosperous New Year!” năm Kỷ Hợi
Nguyên Lạc
………………
Tham khảo: Thảo Trường, Chu Vương Miện, Nguyễn Viết Tân, Nguyễn Cung Thông, Lý Lạc Long, Trần Văn Giang, Trần Quán Niệm, Wikipedia, Trung Tâm Việt Ngữ Văn Lang.