Trên trái đất có Ngày (Dương), Đêm (Âm), có Nóng (Dương), Lạnh (Âm). Mặt Trời là Dương. Mặt Trăng là Âm. Đàn ông là Dương. Đàn bà là Âm. Con thú Đực hay Trống là Dương và Cái hay Mái là Âm. Mọi người chúng ta có hai con mắt, mũi có hai lỗ (nostrils), hai tay, hay chân Những chữ phải, trái đã nói lên chút kỳ thị và khái niệm Âm Dương. Mắc tội gì mà trái? Và làm nên chuyện gì mà phải? Như vậy khái niệm phải trái từ nguyên thủy đã đưa vào sức mạnh và sự hữu ích. Trên cơ sở nầy Âm và Dương đều cần thiết nhưng yếu tố Dương vẫn trội hơn Âm chút ít. 100% những cặp vợ chồng ở Đông Phuơng đều thương con trai và gái như nhau. Nhưng 90% những cặp vợ chồng ở Đông Phương và trong xứ nông nghiệp chịu ảnh hưởng của Khổng Giáo đều muốn có con trai.
Loài Người, Động Vật và Cây Cỏ đều bị chi phối bởi những định luật sinh tồn.
Loài người cần ăn, cần uống, cần tình yêu. Tình yêu dẫn đến sự kết hợp Âm và Dương. Sống đơn độc thì chỉ có Âm hay Dương tức là thế quân bình Âm - Dương bị vỡ. Tâm trạng người sống đơn lẻ hiếm khi được vui vẻ, lạc quan. Đó là lý do tại sao người Đông Phương thích số chẵn mà không thích số lẻ.
Động vật và cây cỏ cũng có những nhu cầu vật chất và tinh thần tương tự dù chúng không biết nói và cũng không có văn tự.
Nếu thiếu nhu cầu yêu đương và sự kết hợp Âm - Dương thì không thể có sự sinh hoá để vĩnh cửu dòng giống được.
Người nam và nữ bắt đầu yêu nhau khi ở vào tuổi 16, 17. Tuổi yêu đương của nữ phái sớm hơn nam phái. Đó là thời gian người nam phát triển dương tính (bể tiếng, có râu mép v.v.) và người nữ phát triển nữ tính của mình (có nhũ hoa, kinh nguyệt, chú trọng đến cách ăn diện, kiểm soát ngôn từ và hành động, thích nghe nhạc buồn, thơ buồn và tìm hiểu những mối tình thơ mộng v.v). Đó là tâm trạng của nam nữ Việt Nam sau khi tiếp xúc với văn hóa Tây Phương đề cao sự tự do luyến ái. Trong xã hội Khổng Giáo tình yêu nam- nữ do cha mẹ định đoạt. Xã hội đề cao khẩu hiệu nam nữ thọ thọ bất thân. Những mối tình đẹp là những mối tình của ông hoàng bà chúa, của những người giàu sang phú quí, những mối tình đẹp giả tưởng và dang dở như Roméo- Juliet, Paul- Virginie, Kim Trọng- Thúy Kiều, Lan và Điệp v.v.
Cũng có những mối tình đẹp nhưng cũng chóng trôi qua như mối tình giữa Napoléon Bonaparte va Desirée ở Marseille thời cách mạng Pháp, giữa Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại) và Marie Thérèse Nguyễn Hữu Hào vào thập niên 1930, Kennedy- Jacqueline v.v. Có những mối tình trắc trở vì lý do kinh tế, giai cấp xã hội, lý do chánh trị hay lý do tôn giáo. Con người đảng viên Cộng Sản không thể cưới gả cho con của gia đình được gọi là Nguỵ. Người nghèo không thể làm dâu hay làm rể gia đình giàu. Người thứ dân không thể cưới gả người trong hoàng tộc. Đó là những trắc trở của những mối tình đẹp, thuần khiết để người trong cuộc phải tự an ủi rằng:
Tình chỉ đẹp khi còn dang dở.
Nhờ vậy mà văn, thơ, âm nhạc trở nên phong phú. Chopin để lại La Tristesse, Musset với La Mort du Pélican v.v. Thế nhưng, ngay từ buổi bình mình lịch sử công chúa Tiên Dung làm một cuộc cách mạng khi nhận Chử Đồng Tử, một thanh niên nhà nghèo, con của một dân chài thiếu ăn, thiếu mặc ở phủ Khoái Châu, làm chồng. Một công chúa lấy người bình dân nghèo đói. Từ bỏ cuộc sống nhung lụa công chúa Tiên Dung dấn thân vào việc kinh thương. Vì tình yêu, công chúa cương quyết không trở lại kinh đô mà bám lấy vùng đất nghèo thường xảy ra bão tố nhiệt đới và ngập lụt của quê chồng. Hành động của công chúa Tiên Dung đích thực là hành động cách mạng:
- cách mạng trong hôn sự
- cách mạng xã hội (bình đẳng giai cấp)
- cách mạng kinh tế (phát triển kinh thương trong một quốc gia nông nghiệp thô sơ. Kinh tế dựa vào trồng trọt và chài lưới bằng phương tiện thô sơ và nghèo nàn).
Một nhà khoa học trứ danh xuất thân từ một gia đình nghèo như Louis Pasteur cũng có một mối tình đẹp gói ghém trong bức thơ ngắn chân thành và ‘khoa học’ gởi cho ái nữ của ông Viện Trưởng Viện Đại Học Strasbourg nơi ông giảng dạy. Ông thẳng thắn nói ông yêu người thiếu nữ đẹp, con của một người trí thức có địa vị quan trọng trong học giới. Ông không nói thành tích học vấn và thành quả khoa học của ông mà nói về thân thế nghèo của mình. Cha của ông Pasteur chỉ là người thuộc da nghèo kỳ vọng con mình sẽ có một tương lai tốt đẹp. Ông Pasteur yêu cầu ái nữ của ông Viện Trưởng Viện Đại Học Strasbourg hồi âm nếu nhận lời cầu hôn của ông. Nếu không nhận lời thì đừng nói với ai!! Năm 1849 họ làm lễ cưới. Lúc ấy ông Pasteur 26 tuổi và vợ tức bà Marie Laurent Pasteur mới 23. Bà vừa là phụ tá của ông trong việc nghiên cứu vừa là mẹ chăm sóc các con cho ông yên ổn làm công tác khoa học. Bà sống trọn đời với ông Pasteur cho đến khi ông mất năm 1895. Bà có 05 con với Pasteur. Trong số này có ba người con mất ở tuổi 9, 2 và 12. Có hai người mất vì bịnh thương hàn. Bà Marie Laurent Pasteur mất năm 1910 và được chôn bên cạnh mộ hầm của ông tại Viện Pasteur ở Paris.
Mối tình giữa Pierre Curie và Marie Curie là mối tình nghèo giữa thầy - trò và nhà hóa học. Marie Curie là người Ba Lan tỵ nạn ở Pháp khi Nga cùng đế quốc Áo- Hung chia cắt xứ Ba Lan. Tại đại học Paris bà học với Pierre Curie và hai người kết hôn. Năm 1903 Pierre và vợ là Marie Curie lãnh giải thưởng Nobel về Vật Lý. Năm 1906 Pierre chết vì tai nạn xe cộ. Lúc bấy giờ chưa có xe hơi. Xe cộ ở đây là xe do ngựa kéo. Năm ấy bà Marie Curie mới 39 tuổi. Dù là nhà khoa học nghiên cứu miệt mài bà phá vỡ sự cô đơn do tình trạng góa bụa gây ra. Bà yêu Paul Langevin (1872- 1946), cựu sinh viên tiến sĩ của chồng bà, Pierre Curie. Mối tình này làm cho các đối thủ khoa học của bà dùng để làm giảm bớt uy tín và ánh sáng của bà trên lãnh vực khoa học. Năm 1911 bà Marie Curie được giải thưởng Nobel về Hoá Học. Bà mất năm 1934. Năm 1935 con gái của bà và rể của bà là Irène Joliot-Curie và Frédéric Joliot-Curie được lãnh giải thưởng Nobel về Hoá Học. Bà Marie Curie là một người tỵ nạn Ba Lan làm rạng danh nước Pháp với những thành tích:
1. Bà là người phụ nữ đầu tiên dạy Đại Học Paris
2. Bà là người được lãnh giải thưởng Nobel hai lần (1903 và 1911)
3. Gia đình bà gồm chồng, con, rể và bản thân bà đều lãnh giải thưởng Nobel (03 giải). Riêng bản thân bà được lãnh giải thưởng Nobel hai lần.
4. Năm 1995, 61 năm sau ngày bà mất, Pháp cải táng bà ở Panthéon. Bà là người phụ nữ đầu tiên được chọn ở Panthéon. Khi còn sống bà bị các đối thủ của bà tìm mọi sơ hở của bà để từ chối mọi danh dự mà bà xứng đáng được trao. Nào là bà không phải là người Pháp. Bà còn bị gán là người Do Thái. Mối tình thầm kín giữa bà và nhà khoa học Paul Langevin, môn sinh của chồng bà và trẻ hơn bà 5 tuổi, là đề tài lớn để các đối thủ của bà triệt hạ uy tín của bà. Ông Paul Langevin là người đầu tiên phát minh máy phát hiện siêu âm của tàu ngầm.
Nước Pháp Thiên Chúa Giáo và có trình độ chánh trị, triết lý và khoa học tiến bộ trên thế giới. Thế mà Pháp có nhiều điểm giống xã hội Khổng Giáo của ta với sự đối xử khắt khe đối với kịch sĩ Molière khi ông mất. Bà Marie Curie yêu thầy mình và ưng ông làm chồng. Dư luận im lặng. Chồng bà chết bà yêu người học trò của chồng mình. Dư luận lên án bà vì lúc đó bà đã nổi danh sau khi lãnh giải Nobel được 07 năm. Trong chừng mức nào đó xã hội Pháp giống xã hội trọng nam của Khổng Giáo. Theo đó, Dương (+) vẫn hơn Âm (-). Người ta đả kích bà Marie Curie (Âm) chớ không đả kích ông Pierre (Dương), thầy của bà và ông Paul Langevin (Dương), môn sinh của ông Pierre, chồng bà. Nước Pháp đề cao galanterie (chiều chuộng phụ nữ) như Hoa Kỳ với Lady first nhưng cả hai nước này đều chưa có một vị lãnh đạo phụ nữ nào cả. Marie Curie là người phụ nữ đầu tiên được chôn ở Panthéon sau khi lãnh hai giải Nobel Khoa Học cho Pháp (1903 và 1911) và đã mất 61 năm.
Con người yêu nhau dựa trên một số tiêu chuẩn nào đó. Trong xã hội chịu ảnh hưởng của Khổng Giáo yêu nhau và tiến đến hôn sự nhằm mục đích truyền tử lưu tôn, vĩnh cửu tông tộc. Động vật không có ngôn ngữ, văn tự và triết lý gì khi Âm Dương giao hòa. Sự giao tiếp Âm Dương của động vật không phân biệt tầm vóc, trọng lượng xảy ra trong mùa động cỡn của từng loài động vật. Sự giao tình giữa Âm và Dương trong cộng đồng động vật cũng nhằm mục đích sinh sản, vĩnh cửu dòng giống mặc dù động vật không có hôn sự, giá thú và trách nhiệm của Dương phái đối với Âm phái. Xã hội loài người có thể có chế độ đa thê nhưng người cha có trách nhiệm với đàn con khác mẹ của mình. Xã hội động vật vừa đa thê vừa đa phụ. Cùng một lứa Khuyển tộc có thể có nhiều Khuyển phụ khác nhau. Các Khuyển phụ cũng không biết Khuyển tử nào là con mình!
Điều đáng làm cho loài người ngạc nhiên là trong cộng đồng động vật có nhiều động vật chung thủy với nhau, cùng chia sẻ nỗi vui buồn với nhau trong kiếp sống trên mặt địa cầu. Đa số những động vật chung thủy với đối tác mà chúng bắt cặp là loại chim có lông vũ như thiên nga, kênh kênh, ngỗng, đại bàng sói, bồ câu bông gù, chim cụt. Dưới đây là những động vật được xem là thủy chung với nhau:
1. Thiên nga Cygnus olor, gia đình: Anatidae. Loài thuỷ điểu nầy biểu tượng cho lòng chung thủy. Thiên nga luôn luôn sống có cặp. Con trống và mái bắt cặp với nhau cho đến chết. Nếu một trong cặp có một con chết, con còn sống sẽ bắt cặp với con khác chớ không sống góa bụa đến chết như người ta cường điệu về sự chung thủy của loài thuỷ điểu cao quí nầy. Điều lạ là hai con thiên nga lúc đối diện nhau, cổ của chúng tạo thành hình trái tim.
2. Ngỗng Branta canadensis, gia đình: Anatidae như thiên nga. Ở nước ta có ngỗng nhưng không có thiên nga. Ngỗng cũng là loài thủy điểu sống có cặp rất chung thủy như thiên nga. Đó là điều không tìm thấy nơi vịt Xiêm, vịt ta hay vịt Tàu. Ngày xưa, trong ngày cưới, có hai người ôm cặp ngỗng như cầu chúc cặp vợ chồng mới cưới chung thủy nhau.
3. Kênh kênh Gyps fulvus, gia đình: Aegypiinae là một loại chim to lớn, mỏ quặp, lông đen, xám hay xám- trắng trông thô lỗ, dữ tợn. Kênh kênh chuyên sống bằng những xác thú chết sình thối. Trong cuộc sống lứa đôi kênh kênh được xem là loài điểu tộc chung thủy.
4. Đại bàng sói Haliacetus leucocephalus, gia đình: Accipitridae. Đại bàng sói mái lớn hơn đại bàng sói trống 25%. Loài đại bàng sói chung thủy với nhau vì chúng rất bảo thủ, luôn luôn làm ổ trên ổ cũ. Các chim đại bàng con của nhiều lứa khác nhau đều cùng một dòng cha.
5. Bồ câu đốm hay gù (như chim cu) Turtur communis hay Streptopella turtur, gia đình: Columbidae. Người Anh gọi là turtle dove nhưng chữ turtle ở đây không có nghĩa là con rùa mà là chữ âm trại từ chữ tortur có nghĩa là bài ca, khúc hát vì tiếng gù của bồ câu hay chim cu. Bồ câu là một loại chim hiền hòa và đẹp. Chim bồ câu trống rất có trách nhiệm với người bạn đường. Bồ câu trống phụ ấp trứng với bồ câu mái. Sự thủy chung của bồ câu trống và mái đều được mọi người ghi nhận.
6. Chim hải âu (albatross) Phoebastria albatross, gia đình: Diomedeidae. Sự sinh sản của loài hải âu này rất chậm.
7. Chim cụt (Penguin) là một loài chim vùng khí hậu hàn đới hay bán hàn đới. Tên khoa học Pygoscelis antarctica, gia đình Spheniscidae.
8. Cá thiên thần (angelfish: Thiên Thần Ngư) Pomacanthus paru, gia đình: Pomacanthidae.
9. Chó sói Canis lupus lupus, gia đình: Canidae. Chó sói là thân thuộc gần với chó nhưng rất dữ và khéo tổ chức. Chó sói theo chế độ độc thê ngoại trừ một trong hai con có một con chết trước. Con còn sống tái giá hay tục huyền với một đối tượng khác.
10. Cá mập Carcharhinus amblyrhynches là loại cá to rất nguy hiểm cho người tắm biển. Loại cá này được xem là chung thủy.
Trong 10 loài động vật được xem là động vật chung thủy, điểu tộc chiếm 07 tức 70%. Ba động vật còn lại thuộc về động vật dữ. Hóa ra sự chung thủy là mẫu số chung của động vật dữ lẫn động vật hiền.
Cây cối ra hoa như thanh niên nam, nữ đến tuổi dậy thì. Có những cây có hoa lưỡng tính (hoa đực và hoa cái cùng trên một cây). Có những cây chỉ có hoa đực và có những cây chỉ có hoa cái. Khi hoa đực và hoa cái hợp lại với nhau thì kết trái. Ong, bướm, dơi, gió đóng vai bà mai giúp đỡ cho hoa đực kết duyên với hoa cái để thụ thai ra trái. Đó là cách vĩnh cửu tông đường của cây cỏ trong vũ trụ.
Các loài thảo mộc có hoa đực và cái ở hai cây khác nhau (dioecious trees) rất nhiều. Chúng tôi xin tạm ghi vài cây dưới đây:
1. Cây sung dê (capri fig) Ficus carica, gia đình: Moraceae. Trái ăn không được. Nhưng người ta trồng cây sung dê nầy bên cạnh cây sung ăn trái để có hoa đực thụ phấn với hoa cái của cây sung có trái ăn được.
2. Cây chà là (phoenix palm) Phoenix dactylifera, gia đình: Palmae. Một cây chà là đực có thể cung cấp phấn hoa cho 40- 50 cây chà là cái gần đó. Sự thụ phấn do ong, bướm, gió hoàn tất. Đôi khi cũng có bàn tay của loài người nhúng vào. Có như vậy cây mới ra nhiều trái.
3. Cây bạch quả Ginkgo biloba, gia đình: Ginkgoceae. Ở Hoa Kỳ người ta trồng bạch quả trên đường phố để có cảnh đẹp và bóng mát nhưng cây bạch quả không có trái vì có thể người ta trồng thuần cây đực hay cây cái. Lý do không cho bạch quả ra trái vì trái bạch quả chín rớt xuống đất có mùi khó chịu. Đó là cách chặn đứng sự sinh hóa. Bạch quả là một cây thuốc. Hột bạch quả là thức ăn đắt tiền. Cây bạch quả có thể sống cả ngàn năm. Cây bạch quả ở Hiroshima vẫn sống sau khi thành phố bị ném bom nguyên tử.
4. Cây hồng (persimmon) Diospyro kaki, gia đình Ebenaceae.
5. Cây giâu đỏ (red mulberry) Morus rubra, gia đình: Moraceae.
6. Cây liễu (willow) Salix babylonica, gia đình: Salicacéae
7. Cây bạch dương (poplar) Populus balsamifera, gia đình: Salicaceae
8. Cây thủy tùng (yew) Taxus baccata, gia đình: Taxaceae.
****
Âm, Dương thu hút nhau, dung hợp nhau để tạo ra sự sinh hoá không ngừng trong vũ trụ. Đó là định luật sinh tồn tự nhiên trong vũ trụ không dành riêng cho loài người mà cho động vật và thảo mộc nữa.
Nhân dịp lễ Valentine thân chúc các bạn đã có gia đình tìm lại giây phút trẻ trung của lứa tuổi đôi mươi bên cạnh người phối ngẫu. Riêng các bạn trẻ sẽ tìm được người trong mộng.
Phạm Đình Lân, F.A.B.I