Từ thời xa xưa, ngôn ngữ Việt Nam đã rất đa dạng, phong phú. Nhất là những chữ ngữ cổ bởi chúng có thể diễn tả sâu sắc nội tâm của con người, diễn tả chi tiết về sự vật, hiện tượng… Cho đến ngày nay, chúng vẫn tồn tại nhưng lại thường bị mất nghĩa hoặc bị hiểu sai.
Dưới đây là một số chữ cổ tưởng chừng vô nghĩa nhưng lại có ý nghĩa rất bất ngờ và thú vị.
* Yêu Dấu
Chúng ta vẫn thường nói: “Em yêu dấu.” “Yêu” thì hiểu rồi, nhưng “dấu” nghĩa là gì?
“Dấu” là một chữ cổ, sách “Đại Nam quốc âm tự vị” của Huỳnh Tịnh Của giảng: “Dấu” nghĩa là “yêu mến.” “Từ điển Việt-Bồ-La” của Alexandre de Rhodes (1651) cũng giải thích “Dấu” là một chữ cổ để chỉ sự thương yêu. Ông cho ví dụ: Thuốc dấu là “bùa để làm cho yêu.”
Tục ngữ Việt Nam nói “Con vua vua dấu, con chúa chúa yêu,” còn Hồ Xuân Hương trong bài thơ “Cái quạt giấy” (bài hai) thì viết “Chúa dấu vua yêu một cái này.” Có thể thấy, “Dấu” và “Yêu” là hai chữ có ý nghĩa tương đương, ngày xưa dùng hai chữ độc lập, nhưng bây giờ ta có thể thấy chữ “yêu” vẫn còn được viết hay nói một mình, còn chữ “dấu” thì không ai dùng một mình nữa. Giờ đây, thay vì “Anh yêu em” mà nói “Anh dấu em” thì không khéo lại bị hỏi là “Anh giấu cái gì?”
* Chợ Búa
Trong chữ “chợ búa” thì “búa” có nghĩa là gì?
“Búa” trong “chợ búa” chắc chắn không liên quan đến cái búa để đốn cây rồi. Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng ý kiến được xem là vững chắc nhất thì cho rằng “búa” là âm xưa của chữ [铺], âm Hán Việt hiện đại là của chữ này là “phố,” nghĩa là cửa hàng, là nơi buôn bán. Chợ búa nói chung là nơi người ta tụ tập mua bán.
“Búa” trong tiếng Việt hiện đại đã dần mất nghĩa và không dùng độc lập, nhưng nếu nói nó vô nghĩa thì không đúng. Tiếng Việt có rất nhiều chữ cổ bị mất nghĩa khi đứng một mình, nhưng chúng không vô nghĩa.
* Gậy Gộc
Người ta nói “gậy gộc.” “Gậy” thì hiểu rồi, còn “gộc”?
“Gộc” là chữ mà hiện nay đã không còn nghĩa độc lập. Tiếng Hán, “gộc” là chữ này [㭲]. Sách “Đại Nam quốc âm tự vị” của Huỳnh Tịnh Của giảng: “Gộc” là “cây củi có khúc đẩn (?) mà lớn” và cho ví dụ “ông gộc” là người già cả hơn hết hoặc làm lớn hơn hết trong một xứ. Cũng có tài liệu giảng “gộc” là “đoạn gốc của cây tre, cây vầu” hay có nghĩa là “to lớn.”
Theo đó, “gậy gộc” nghĩa là những cây gậy lớn, thường dùng để đánh nhau.
* Hỏi Han
Mình hay nói “hỏi han” nhau. “Hỏi” thì rõ nghĩa rồi, vậy “han” có nghĩa không?
Tương tự như “gậy gộc,” “hỏi han” không phải là chữ láy mà là chữ ghép đẳng lập, trong đó cả “hỏi” và “han” đều có nghĩa.
“Đại Nam quốc âm tự vị” của Huỳnh Tịnh Của giải thích: “Han” nghĩa là “hỏi tới,” “nói tới.” Theo đó, “hỏi han” nghĩa là hỏi một việc gì đó, hỏi tới hay nói tới một việc nào đó.
Truyện Kiều của Nguyễn Du dùng “han” như một chữ độc lập, không dính đến chữ “hỏi,” trong câu:
“Trước xe lơi lả han chào
Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi.”
(Phần Kiều rơi vào tay Tú Bà và Mã Giám Sinh).
“Han chào” chính là chào hỏi.
* To Tát, Tuổi Tác
Khi mình nói về một chuyện gì đó “to tát” thì “tát” có nghĩa là gì?
“To tát” không phải là chữ láy mà là chữ ghép, cả “to” và “tát” đều có nghĩa. Tuy nhiên, “tát” ở đây là một minh chứng cho hiện tượng dùng sai nhiều thì thành đúng trong ngôn ngữ. “Tát” đúng ra phải dùng là “tác.”
“Tác” nghĩa là lớn, ta thường gặp qua chữ “tuổi tác.” Khi nói “tuổi tác” thì đã mang nghĩa lớn tuổi, già rồi. Tuy nhiên, ngày nay mình hay nói “tuổi tác đã lớn,” cách nói này xét về nguồn gốc thì không đúng, bị lặp chữ.
Do trong quá trình sử dụng đã có nhiều biến chuyển, nên “tuổi tác” thường dùng để chỉ tuổi. Thậm chí tuổi còn nhỏ cũng dùng “tuổi tác.” Ví dụ: “Tuổi tác còn nhỏ,” “tuổi tác mới có bây lớn,”…
Riêng chữ “to tác” để chỉ cái gì đó lớn thì đã dùng thành “to tát.” Tuy nhiên, để viết đúng chính tả tiếng Việt hiện đại thì mình vẫn cứ dùng “to tát.”
* Cần Cù
Có câu, “cần cù bù thông minh.” “Cần cù” là chữ láy hay chữ ghép? “Cù” có nghĩa gì không?
“Cần cù” là chữ ghép, cả “cần” và “cù” đều có nghĩa. Đây là chữ gốc Hán, viết là 勤劬. “Cần” là siêng năng chăm chỉ, “cù” là khó nhọc, vất vả.
Chữ “cù” này còn xuất hiện trong chữ “cù lao” (劬劳) chỉ công ơn cha mẹ (thường nói chín chữ cù lao).
Truyện Kiều có câu:
“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn.”
Không nên nhầm lẫn chữ “cù lao” này với chữ “cù lao” chỉ cồn đất/cát nổi lên giữa sông do phù sa bồi lắng.
* Bếp Núc
– “Bếp” là nơi nấu ăn;
– “Núc” là “đồ đắp bằng đất thường làm ra ba hòn, có thể bắc nồi nấu ăn,” cho nên có thể hiểu núc chính là ông Táo. (theo “Đại Nam quốc âm tự vị,” Huỳnh Tịnh Của).
* Thêu Thùa
“Thêu thùa” là chữ ghép tổ hợp (hay ghép đẳng lập), trong đó cả thêu và thùa đều có nghĩa:
– “Thêu” là dùng chỉ màu đính lên bề mặt vải làm ra hoa văn;
– “Thùa” là kết chỉ thêm, làm cho đẹp thêm.
Về cơ bản thì” thêu” và “thùa” giống nhau, đều là hành động thêm hoa văn trang trí trên vải vóc cho đẹp. Nhưng “thùa” đôi khi còn có nghĩa là hành động mạng lại chỗ vải bị rách cho đẹp.
* Vải Vóc
“Vải vóc” là một chữ ghép với chữ “vóc” cũng có nghĩa:
– “Vải” là chỉ bông hoặc đồ dệt bằng chỉ bông;
– “Vóc” là một xấp hàng lụa vừa đủ một quần là sáu thước may.
Ngày nay thì “vải” không nhất thiết là dệt bằng chỉ bông mà có thể dệt bằng nhiều chất liệu khác. Còn “vóc” thì ít khi thấy dùng một mình nữa, người ta thường lầm tưởng “vải vóc” là chữ láy.
Bâng Khuâng (Sưu tầm)
Mời đọc thêm các nhận xét và trả lời về bài chủ
Bâng Khuâng có thể bổ sung một số chữ ngữ nữa:
* Chó Má:
Một khi mắng chửi, khinh bỉ ai, người ta dùng chữ “chó má.” Vậy Má là gì?
“Chó má“: Người Tày gọi con chó là “tu ma.” Cải thành chữ “chó má” của ta, tiếng “má” ấy có lẽ bởi tiếng “ma” của Tày mà ra; có một số danh chữ của Tày giống của ta lắm” (Phan Khôi); Nhà dân tộc học, ngôn ngữ học Nguyễn Bạt Tụy lại cho rằng: “Má gốc tiếng Thái cùng có nghĩa là chó” (dẫn theo Việt ngữ tinh hoa chữ điển của Long Điền – NXB Hoa Tiên – 1952).
Cũng có người cho rằng chó khác má ở chỗ: “Chó không ăn thịt đồng loại, má ăn thịt đồng loại.”
* Người Ngợm
“Ngợm” là con chi?
“Ngợm”: con vật tưởng tượng, có vẻ giống người nhưng hình thù rất xấu xí.
“Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi.” (Cao Bá Quát)
“Người ngợm”: Ở đây chữ “ngợm” có nghĩa đối lập với chữ “người.” Thường các cụ ngày xưa hay chửi: “Mày không phải là người nữa rồi, mày là ngợm mới đúng.”
“Người ngợm” chỉ một Con Người mà toàn làm những điều xấu xa thậm chí không chấp nhận được với thế giới loài người.
* Gà Qué
“Qué” có nghĩa thế nào?
“Qué” là yếu tố Hán Việt có nghĩa là “gà” (một cách đọc trại âm chữ Kê). Cho nên Gà Qué có nghĩa chung là con “Gà,” thường dùng với ý xấu.
* Ăn Vóc Học Hay
Vóc trong tục ngữ trên nghĩ như thế nào?
1/ Nhiều ý kiến cho rằng:
– Vóc là thân thể, thân hình con người (danh từ).
– Hay gần nghĩa với giỏi (tính từ).
Nếu giải thích theo hướng này thì:
+ Chúng ta cũng đã từng chữ gặp Hay qua các từ ngữ “hay giỏi,” “hay chữ” (ví dụ: “Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy.”)
+ Vì Hay vốn là một tính từ, nên Vóc – chữ đối ứng với nó cũng phải là một tính từ.
(Trong tục ngữ trên Vóc, Hay đứng sau động từ “ăn, học” nên theo văn phạm cũ, chúng là Trạng từ).
+ Nhưng Vóc thường xuất hiện với nghĩa danh từ để chỉ thân thể, dáng hình của con người; chẳng hạn: vóc ngọc mình vàng, lớn người to vóc, vóc sương, vóc bồ liễu… Với ý nghĩa này, Vóc không tương ứng với Hay trong học hay.
Có lẽ, trong câu tục ngữ trên Vóc đã được chuyển nghĩa chữ chỗ chỉ thân thể (danh từ) sang chỉ đặc tính khoẻ mạnh của con người, chỉ “sự cao lớn chắc chắn,” chỉ hình thù vóc dáng cao lớn, (tính từ). Nghĩa là Vóc được chuyển chữ loại thành tính từ. (ở trong câu tục ngữ “ăn vóc học hay” thì Vóc, Hay đều là trạng từ). Do đó, câu tục ngữ ăn vóc học hay được hiểu là ăn khoẻ, học hành giỏi giang.
2/ Hiểu theo chữ cổ:
Bách khoa toàn thư Việt Nam (http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn) khi giảng mục chữ “Tục ngữ” đã lưu ý rằng “Có những câu [tục ngữ] xuất hiện từ lâu đời, còn giữ lại những chữ cổ”; liền sau đó cho thí dụ: “Ăn vóc học hay.” Tuy các nhà biên soạn không nói rõ nhưng có thể suy ra “vóc” chính là một chữ cổ.
Một học giả uy tín trong lĩnh vực giải mã các chữ ổ tiếng Việt là Huệ Thiên (tức An Chi) khi viết bài “Tại sao một số thành ngữ, tục ngữ lại khó hiểu?” (http://www.hanosoft.com) đã lý giải như sau:
(lược trích):
“Thực ra, Vóc là một chữ Việt gốc Hán – và đúng là một tính từ – bắt nguồn ở một chữ ghi bằng chữ mà âm Hán Việt hiện đại là Úc, có nghĩa là thơm, ngon. Vậy tất nhiên là vóc cũng có cùng nghĩa đó và “ăn vóc” tất nhiên có nghĩa là ăn ngon (…) Tóm lại, vóc trong “ăn vóc học hay” là một chữ cổ và chữ cổ này có nghĩa là thơm, ngon.
Vậy “ăn vóc học hay” không có nghĩa nào khác hơn là ăn ngon, học giỏi. Đây là một thành ngữ dùng để nói về những người học trò mà cái sự học xứng đáng với cái sự ăn, nghĩa là sự dùi mài kinh sử xứng đáng với sự nuôi nấng chu đáo của cha mẹ.”
Theo ý kiến thầy Nguyễn Hứa Thảo:
- Qua tìm tòi tra cứu, dựa vào Tầm Nguyên thì Tiếng Việt có Tư Đai là do ảnh hưởng chữ tiếng Miên / Chiêm thành (theo chữ Điển Nguồn Gốc Tiếng Việt của Tiến Sĩ Nguyễn Hy Vọng, nhà xuất bản Đất Việt /2012):
– Theo ghi chú: Tư”K Đai = nghĩa là Nước Đất / Đất Nước.
Tôi tìm hiểu về chữ Đai trong đất đai còn có những ý nghĩa sau:
– Đai:
+ Danh từ
. cài vòng, cái dây để đeo
. vành bao quanh vật gì, thường để giữ cho chặt, cho chắc
. thùng gỗ có đai sắt
. vành đeo ngang lưng phía ngoài áo chầu vua.
. dây thắt ngang lưng phía ngoài áo của các võ sĩ, có màu quy định riêng cho mỗi đẳng cấp (võ sĩ mang đai đen, thi lên đai
. Dải (đất, khí hậu, thực vật, v.v.) chạy vòng quanh Trái Đất theo hướng vĩ tuyến: đai khí hậu nhiệt đới, đai ôn đới
Đồng nghĩa: vòng đai.
+ Động từ
(Khẩu ngữ) nói kéo dài và nhiều lần về việc đã xảy ra để tỏ sự không bằng lòng của mình:
. đai đi đai lại
. người ta đã nhận lỗi rồi mà còn cứ đai mãi
Nói Đai phát âm theo giọng Bình Trị Thiên nghĩa là nói Dai.
* Đất Đai
Trong chữ “đất đai,” “đai” có nghĩa là gì?
Đất
Theo chữ điển bách khoa Wikipedia: “Đất trong thuật ngữ chung là các vật chất nằm trên bề mặt Trái Đất, có khả năng hỗ trợ sự sinh trưởng của thực vật và phục vụ như là môi trường sinh sống của các dạng sự sống động vật từ các vi sinh vật tới các loài động vật nhỏ.”
Đai
– Theo chữ điển mở Wiktionary: “Dải đất hẹp, dài có hình vòng cung hở hay kín như một vành đai.”
– Dựa vào Tầm Nguyên thì Tiếng Việt có Tư Đai là do ảnh hưởng chữ tiếng Miên / Chiêm thành (theo chữ Điển Nguồn Gốc Tiếng Việt của Tiến Sĩ Nguyễn Hy Vọng, nhà xuất bản Đất Việt /2012):
+ Theo ghi chú: TƯ”K ĐAI = nghĩa là Nước Đất / Đất Nước.
– Theo tra chữ Soha: Dải (đất, khí hậu, thực vật, v.v.) chạy vòng quanh Trái Đất theo hướng vĩ tuyến (đai khí hậu nhiệt đới, đai ôn đới)
Như vậy “đất đai” là khoảng không gian cho các hoạt động con người được thể hiện ở nhiều dạng sử dụng đất khác nhau.
* STT thì bảo “Búa” trong “chợ búa” chắc chắn không liên quan đến cái búa để đốn cây rồi.” Còn Phú Đoàn lại nói: “Búa trong Chợ Búa có liên quan đến cây búa đốn cây.” (Lời bác Tam Ngng)
Bác Tam Ngng lại chưa hiểu ý của tôi rồi.
Khi tôi nói “Búa trong Chợ Búa có liên quan đến cây búa đốn cây.” “vì dạng chữ Nôm của Búa (trong “chợ búa“) là 斧 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phủ,” chỉ cây búa).”
Nghĩa là tôi cho rằng chữ Hán 斧 có nghĩa là Búa, nên người Việt đã mượn chữ 斧 để ghi âm Búa (trong “chợ búa“) của chữ Nôm sáng tạo riêng cho mình.
Tôi nói “mượn chữ” để ghi âm. Nhưng khi viết thành âm Việt không còn mang nghĩa như chữ Hán đó nữa và tất nhiên đọc theo âm mới Việt.
– Một chữ Nôm cũng có đến vài cách ghi, nên chữ Búa (trong “chợ búa”) có thể được ghi bằng nhiều tự dạng chữ Nôm khác nhau.
+ Với chữ 鈽, âm Hán Việt tiêu chuẩn là “bố,” chỉ chất hóa học Plutonium (Pu).
. Âm Nôm chữ 鈽 ấy là Búa có nghĩa là búa rìu; hóc búa.
Nên Búa (trong chợ búa, hóc búa, búa rìu) đều có thể viết theo tự dạng chữ Nôm bằng 斧 hay chữ 鈽 đều được cả.
Xét các trường hợp khác:
+ Chữ 鈈 (âm Hán Việt tiêu chuẩn là “bất,” cũng chỉ chất hóa học Plutonium) như Bác Tam Ngng nêu, nhưng âm Nôm chữ 鈈 là Bộ (cũng có nghĩa là chất Plutonium) nên không thể dùng chữ 鈈 để ghi âm Búa (trong “chợ búa, hóc búa, búa rìu”) được.
+ Tương tự như vậy mặc dù chữ Phố 鋪 (được cho có âm Hán Việt cổ là Búa) không được mượn để ghi chữ Nôm có âm Búa (trong chợ búa) vì âm Nôm của nó là “pho, phô, phố.”
* Đó là những lý do tôi cho rằng Phố 鋪 (dù được cho có âm Hán Việt cổ là Búa, lại có nghĩa là cửa hàng, là nơi buôn bán) không phải là Búa trong chữ Tiếng Việt Chợ Búa.
Theo ông An Chi trong tập “Chuyện Đông Chuyện Tây” (trang 70, sách dạng PDF mà tôi “download” về máy tính, thì:
Tương tự (chợ) búa # (thị) phố = tiệm bán hàng).
Về trường hợp chữ Búa, năm 1951 Phan Khôi đã viết như sau:
“Chợ Búa: Tôi nói do chữ Hán, ‘thị phủ’ mà ra, có lẽ không đúng. Năm 1949, ông Nguyễn Thiệu Lâu cho tôi biết ở Hà Tĩnh vẫn gọi cái chợ nhỏ là búa.” (Việt ngữ nghiên cứu, Hà Nội, 1955, trang 67)
Đúng là “chợ búa” không do thị phủ mà ra vì phủ ở đây là nơi làm việc của quan lại, còn phố mới là nơi buôn bán. Còn điều thông tin mà Nguyễn Thiệu Lâu đã cung cấp cho Phan Khôi chỉ chứng tỏ rằng “búa” là một chữ cổ hãy còn độc lập (nghĩa là chưa thành tiếng đệm) trong lời ăn tiếng nói của người Hà Tĩnh chứ chẳng phải là một bằng chứng để phủ nhận Búa là do Phố hoặc Phủ mà ra. Về mối quan hệ b và ph, chúng tôi đã đề cập nhiều lần trên KTNN, đặc biệt là trong bài “Tìm hiểu về hai chữ Bụt và Phật” (số 84, trang 15-17).
Trích An Chi
(Chuyện Đông Chuyện Tây, trang 70)
(nhatbook-Chuyendongchuyen tay-AnChi 2002-2006.pdf)
1/ Ông An Chi nói: “Thông tin mà Nguyễn Thiệu Lâu đã cung cấp cho Phan Khôi chỉ chứng tỏ rằng búa là một chữ cổ hãy còn độc lập (nghĩa là chưa thành tiếng đệm) trong lời ăn tiếng nói của người Hà Tĩnh.”
2/Bài Chữ Nôm trong tự điển Wikipedia thì có dòng chữ “chữ “búa” 斧 (“búa” trong “cái búa, âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phủ“) được dùng để ghi lại chữ “búa” trong “chợ búa” (“búa” trong “chợ búa” là âm Hán Việt cổ của chữ “phố” 鋪).
Chúng tôi muốn tìm hiểu Bú là chữ cổ Việt Nam hay là chữ âm Hán Việt cổ?
Thú thật, rất khó để có đủ tư liệu xưa nay để tra cứu, bên cạnh đó vốn chữ Nôm của tôi quá tệ (hầu như bằng không). Tôi cho rằng, Búa (trong “chợ búa”) là âm Việt, vì:
1/ “Chợ búa” là một chữ kép. “Chợ” là chữ Việt, “Búa” do đó cũng là chữ Việt. Chả lẽ lại có một chữ kép có các chữ vừa Việt vừa Hán.
2/ Có người giải thích chữ “Búa” là chữ cổ của người Mường (người Mường là người Việt cổ), để chỉ nơi họp trao đổi mua bán hàng hóa.
3/ Ông An Chi nói: “Thông tin mà Nguyễn Thiệu Lâu đã cung cấp cho Phan Khôi chỉ chứng tỏ rằng búa là một chữ cổ hãy còn độc lập (nghĩa là chưa thành tiếng đệm) trong lời ăn tiếng nói của người Hà Tĩnh.”
– Nếu cho rằng Búa là là âm Hán Việt cổ của chữ “phố” 鋪 như tự điển Wikipedia nêu:
+ Búa là âm Hán Việt cổ, thì đây là âm cổ thời Hán. chữ /âm Hán Việt cổ là những chữ tiếng Hán được tiếng Việt thu nhận trước thời Đường thông qua giao tiếp bằng lời nói. Hầu hết chữ /âm Hán Việt cổ bắt nguồn chữ tiếng Hán thời nhà Hán.
+ Phố 鋪 (âm Hán Việt bây giờ) chỉ phố xá, tiệm buôn, và chữ có âm cổ Búa. Tại sao khi mượn chữ Hán để ghi lại âm tiếng Việt Búa (trong chữ “chợ búa”), người Việt không mượn chữ Phố này, vừa có âm cổ tương đương, lại vừa đồng nghĩa hoặc cận nghĩa, mà lại người Việt mượn chữ Phủ 斧 (có nghĩa là “cái búa“) chỉ riêng có nghĩa tiếng Việt đọc lên là Búa (không liên quan chi đến “cửa hàng, phố xá” cả) để ghi trong chữ “chợ búa.”
– Trong quá trình cộng cư và giao thoa văn hóa, ngôn ngữ và phong tục xã hội thì đều diễn ra cả qua lại hai chiều. Chẳng lẽ chỉ có người Việt nói, đọc mượn âm Tàu thôi sao? Người Tàu cũng nói, đọc mượn âm Việt nữa chứ. Chắc gì dân bị trị mới học ngôn ngữ văn minh của dân cai trị mà không nói ngược lại. Lịch sử Tàu cho thấy, vua quan Mãn Thanh cai trị dân Hán nhưng lại bị Hán hóa đó ư! Triệu Đà (gốc Tàu) cùng triều đình nhà Triệu cai trị nước Nam Việt, nhưng lại sống theo phong tục tập quán Âu Lạc đó ư! Chưa kể đến việc nền văn minh lúa nước Âu Lạc, Hà đồ, Lạc thư, Kinh Dịch của dân đồng bằng Âu Lạc đã “được” dân du mục “Hoa Hạ” Tàu tiếp thu rồi cưỡng chiếm, biến của người thành của mình. Việc này, thì học giả Kim Định xướng xuất và hiện tại nhiều học giả VN ra sức chứng minh (đang trong vòng tranh luận). Khác với dân tộc Mãn Châu, khi cai trị Trung Quốc, họ tiếp thu văn minh Hán tộc nhưng tỏ ra hòa hiếu, nên chứng tích vẫn còn rõ ràng. Còn Tàu khi cai trị “An Nam” thì hết sức tàn bạo, thâm độc. Chúng đã ra sức vơ vét tinh hoa nhân vật lực của An Nam thu về Tàu và tìm cách hủy diệt văn hóa bản địa như đốt cháy, phá hủy thần phả, thư tịch, trống đồng và các sản phẩm văn minh văn hóa… của An Nam cho sạch chứng tích.
Bên cạnh đó Tàu bằng mọi cách để đồng hóa dân Việt. Sách, sử, chữ viết cổ, tư liệu, các chứng tích văn minh, văn hóa của dân Việt gần như bị tận diệt. Nên để tra cứu, tìm tòi chứng tích cũ là điều vô cùng khó khăn.
– Blogger Ngọc Hiệp Phạm có đưa ảnh chụp chữ [步] đọc Nôm là “bộ” trong “đi bộ” và “bụa” trong “góa bụa” để tạo thế “song hành” cho việc đọc “bộ” [步], là “chợ,” thành “búa” trong “chợ búa.” Ông An Chi đã phản bác qua bài viết:
An Chi qua một số sách đã xuất bản, nhất là “Chuyện Đông, Chuyện Tây” được độc giả hâm mộ và tìm đọc, thán phục kiến văn quảng bác của ông ấy. Cách lập luận của ông khá hợp lý. Tuy nhiên, không phải những điều An Chi viết đều hoàn toàn đúng và có cứ liệu chứng minh đầy đủ, phần nhiều theo suy luận mà diễn giải. Không có ít những cuộc tranh luận giữa An Chi và các học giả VN khác.
Riêng trong bài viết trên, An Chi căn cứ trên ý nghĩa của chữ mà phản bác:
“Cứ như trên thì ‘phố’ [浦] (P1), ‘bộ’ [步] (B) và ‘phụ’ [埠, có khi cũng viết 阜] (P2), là ba chữ có liên quan với nhau hoặc về nguồn gốc (giữa P1 và B) hoặc trong việc sử dụng văn tự (giữa B và P2) cho nên một sự khảo chứng nghiêm túc và chặt chẽ không thể bỏ qua hiện tượng này. Trong mối quan hệ giữa P1 với B thì cái nghĩa “chợ, nơi giao dịch” không hề tồn tại. Trong mục chữ ‘bộ’ [步], mà Ngọc Hiệp Phạm chụp ở chữ điển để đưa vào bài của mình, nó cũng không hề được kể đến (vì không hề tồn tại). Còn trong mối quan hệ giữa B với P2 thì “chợ, nơi giao dịch,” một cái nghĩa của P2, có thể bị gán cho B nhưng, về nguyên tắc, khi B dùng thay cho P2 thì nó cũng chỉ có nghĩa là “đình thuyền đích mã đầu” [停船的碼头], “bến thuyền (đậu),” như đã cho trong Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993, tr.605, cột 2, nghĩa 10).”
An Chi quên rằng người Việt đã mượn chữ Hán để ghi âm Nôm. Tôi nói “mượn chữ” để ghi âm. Nhưng khi ghi thành âm Việt, thì chữ Hán đã mượn không còn mang nghĩa như chữ Hán đó nữa, mà thành nghĩa Tiếng Việt với cách ghi mới và nghĩa riêng đặc thù Tiếng Việt.
Chẳng hạn:
Chữ 斧 có (âm Hán Việt là Phủ) có nghĩa là cái Búa. Người Việt đã mượn chữ 斧 để ghi chữ Nôm có âm Búa (trong “chợ búa“).
Chữ Nôm 斧 có cách đọc mới và có nghĩa mới, cũng là Búa nhưng không phải là búa rìu đốn cây, mà là Búa của âm Việt cổ, chỉ nơi họp trao đổi mua bán hàng hóa.
Không riêng chữ Búa mượn chữ Hán ghi âm Nôm mà nhiều âm Nôm khác cũng thế, được mượn chữ để ghi âm mà không cần đến ý nghĩa gốc theo cách An Chi lý giải.
Âm Chợ có 2 cách ghi trong tự dạng chữ Nôm:
1/ 助 Chợ: phiên chợ, chợ trời.
2/ 𢄂 Chợ: phiên chợ, chợ trời.
Âm Búa có 2 cách ghi trong tự dạng chữ Nôm:
1/ 斧 Búa: búa rìu; hóc búa, chợ búa.
2/ 鈽 Búa: búa rìu; hóc búa.
Theo tôi, lời của An Chi nói và kể cả ý kiến của Bâng Khuâng cũng có phần hợp lý như nhau! Bởi vì chữ viết là phản ảnh chính xác thông điệp của người viết ra nhất là chữ viết của Hán ngữ, nó xuất phát chữ tượng hình lấy hình vẽ để miêu tả như chữ 馬 (biến thể chữ hình con ngựa) nghĩa là con ngựa; lấy ngữ âm để diễn đạt như chữ 媽 (gồm có chữ nữ và chữ mã – biến thể thanh điệu của âm mã thành âm má) nghĩa là người mẹ; mượn ngữ nghĩa để hình dung như chữ 男 (bao gồm chữ điền và chữ lực – người bỏ công sức trên ruộng đồng) nghĩa là con trai. Có thể do người Việt xưa của ta bỏ qua những yếu tố kể trên mà sáng tạo ra chữ Nôm một cách quán tính, cũng chính vì những khiếm khuyết ấy mà dần dần chữ Nôm của ta đã bị chính xã hội của nó đào thải.
Ý kiến bác Trần Hòa khá hợp lý!
Tôi đang nghiên cứu về nguồn gốc tiếng Quảng Đông do nó có những thành phần ngữ pháp rất giống tiếng Việt chẳng hạn: gà trống (gà là danh chữ , trống là tính chữ ) tiếng Quảng Đông cũng vậy 鸡公 (鸡 là gà, 公 là trống) trong khi đó tiếng Phổ thông (Bắc Kinh) lại nói ngược là 公鸡!Hoặc là: Tôi đi trước, tiếng Quảng Đông là 我走先 (我 là tôi, 走 là đi, 先 là trước), trong khi đó tiếng Phổ thông (Bắc Kinh) lại nói ngược lại là 我先走 v..v…
Ngoài ra số lượng thanh điệu của tiếng Quảng Đông lại giống số lượng thanh điệu của tiếng Việt; tiếng Việt ta có vần bằng và vần trắc trong khi đó tiếng Quảng Đông cũng thế; tên gọi xưa kia của người Quảng Đông thật sự gọi là người Việt đấy! Hình như người Việt chúng ta không phải chỉ có những người Việt nói và viết những ngôn ngữ bằng chữ La Tinh như hiện nay, bởi lẽ xưa kia đất nước Việt Nam của chúng ta bị bọn phương Bắc xâm lấn, lúc bấy giờ có nhiều người Việt bỏ xứ sở mà chạy về hướng phương Nam để lánh nạn, đồng thời cũng có khá nhiều người Việt của ta không có điều kiện để chạy nạn đành phải ở lại, qua nhiều thế hệ bị đồng hoá mọi mặt nhưng họ vẫn còn giữ lại nét đặc trưng riêng của dân tộc mình, do đó những ngôn ngữ nói của họ (người Quảng Đông) đến nay có rất nhiều nét giống hệt người Việt bây giờ! Tôi sẽ gửi bài viết đến các bác mong nhận được sự chỉ giáo của các bác nhé!
Theo Wikipedia tiếng Việt:
Tiếng Quảng Đông (giản thể: 广东话; phồn thể: 廣東話; Hán-Việt: Quảng Đông thoại), còn gọi là Việt Ngữ (giản thể: 粤语; phồn thể: 粵語), là một nhánh chính của tiếng Trung được nói tại miền Nam Trung Quốc, đặc biệt là hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây.
Tiếng Quảng Đông bao gồm nhiều phương ngôn khác nhau, trong đó có hai phương ngôn chữ ng đóng vai trò làm lingua franca trong các cộng đồng người Hoa hải ngoại tại Bắc Mỹ là tiếng Đài Sơn (thế kỷ XIX) và tiếng Quảng Châu (thế kỷ XX). Tiếng Quảng Châu – được nói tại thủ phủ Quảng Châu của tỉnh Quảng Đông – là phương ngữ ưu thế của nhánh ngôn ngữ này, nó cũng là ngôn ngữ chính thức tại hai đặc khu hành chính Hồng Kông và Ma Cao. Tiếng Quảng Đông cũng được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng người Hán ở nước ngoài ở Đông Nam Á (đáng chú ý nhất là ở Việt Nam và Malaysia, cũng như ở Singapore và Campuchia ở mức độ thấp hơn) và trên khắp thế giới phương Tây.
Tiếng Quảng Đông hay còn được gọi là Việt Ngữ tại Trung Quốc, bởi lẽ vì hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây trước đây thuộc về đất của dân tộc Bách Việt. Ngày nay thì vùng đất này hiện đang nằm ở phía Nam của Trung Quốc cùng với một phần thuộc đồng bằng châu thổ miền Bắc của nước ta, nên hai tỉnh ấy còn được gọi tên là tỉnh Việt.
Ngoài ra, do là phương ngữ được ưu thế trong Việt ngữ nên còn được gọi là Việt ngữ tiêu chuẩn hay là Việt ngữ chuẩn.
Có thể thấy rằng, tiếng Quảng Đông rất khác so với các ngữ âm trong tiếng Trung Quốc phổ thông (lấy giọng Bắc Kinh làm chuẩn), thể hiện nét đặc trưng riêng biệt cho nền văn hóa và đặc tính dân tộc của một bộ phận của người Trung Quốc.
Tiếng Quảng Đông được sử dụng phổ biến ở các nước Đông Nam Á. Người Hoa hải ngoại nói tiếng Quảng Đông là tiếng mẹ đẻ như Hồng Kông, Ma Cao và những cộng đồng người Hoa ở nước ngoài vì nguồn gốc dân cư là chữ di cư chữ khu vực Lưỡng Quảng đến. Trong lịch sử tiếng Quảng Đông chữ ng có giai đoạn thịnh hành ở Trung Quốc và chữ ng được thống kê là ngôn ngữ được nhiều người nói nhất trước khi bị tiếng Trung phổ thông (ngôn ngữ chính thức ở Trung Quốc đại lục, lấy giọng Bắc Kinh làm chuẩn) thay thế.
Có người cho rằng:
“Chợ thường họp ở nơi trên bến dưới thuyền cho nên mới có câu chợ búa” (“búa” là “bến”).
“Phố” (浦) là chữ Hán Việt có nghĩa là “bến.”
Trong bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” của Bà Huyện Thanh Quan có câu:
“Gác mái, ngư ông về viễn phố”
Mà “viễn phố” (遠 浦) có nghĩa là “bến xa.”
Lạ thật! Hễ cái là nói chữ này chữ kia trong tiếng Việt là gốc Hán! Còn bao nhiêu cái gốc Hán nữa thì đem hết ra luôn đi! Xàm xí! Giải thích cho đã rồi cũng bảo người ta nên viết theo cái sai. Vậy giải thích chi? Biết sao hay nhầm lẫn không? Tại không dùng chữ Nôm nữa á! Dùng chữ Nôm đi là hết nhầm à!
Có chi “xàm xí” đâu bạn Unknown nhỉ!
Bạn đọc cho kỹ nhé: “Có người cho rằng:…”
Bạn cần phân biệt giúp cho “Người đó cho rằng chứ không phải chúng tôi cho rằng…”
Chuyện cho “chữ này, chữ kia trong tiếng Việt là gốc Hán…” là việc của học giả An Chi, không phải ai cũng chấp nhận.
Theo lời của bạn: “Tại không dùng chữ Nôm nữa á! Dùng chữ Nôm đi là hết nhầm à!” Chữ Nôm “hết thời” rồi và không giản tiện bằng chữ quốc ngữ mà chúng ta đang dùng. Nhưng khi cần tra cứu thì cần tham khảo chữ Nôm, tiếc rằng chữ Nôm còn khó đọc hơn chữ Hán nữa…
Dạ thưa bác, gần đây trong giới trẻ của bọn cháu tranh luận với nhau về chữ “Ủy khuất.” Một nhóm nói không được dùng chữ này vì nó chỉ là phiên âm Hán Việt, không có trong tự điển Tiếng Việt. Nhóm khác thì nói chữ này có thể dùng được như chữ Hán Việt. Bản thân cháu thì rất rối vì cháu tra chữ này đúng là không có trong chữ điển nhưng khi cháu nhẩm thì cháu lại hiểu được nghĩa của nó rất rõ ràng. Cháu muốn hỏi bác có nhận định như thế nào về chữ này ạ. Và có thể dùng chữ này thay cho các chữ cùng nghĩa không ạ?
Ủy Khuất 委屈 vốn là chữ Hán Việt.
Nghĩa gốc của nó là: Cong gãy, không thẳng
Nghĩa chuyển là: Điều giấu kín trong lòng, không bày tỏ ra được.
Đây là âm Hán Việt, không có trong tiếng Việt hiện đại. Khi dịch sang tiếng Việt, tùy ngữ cảnh mà nên linh hoạt dịch như sau:
1. Cảm thấy “ủy khuất“: ấm ức tủi thân, oan ức, uất ức, uất nghẹn.
2. Chịu “ủy khuất“: ấm ức, thiệt thòi, uất ức, oan, oan ức, oan uổng.
3. “Ủy khuất” + động từ: ấm ức/uất ức + động từ.