User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active
 
Loạt bài viết nhằm tưởng nhớ đến người anh hùng Đoàn Xuân Trinh, người con ưu tú của dòng họ Đoàn, Đông Yên, Quảng Nam vị quốc vong thân. Mật thám Pháp tra tấn Ngài đến chết tại Lao xá Hội An năm 1930. Ngài là động lực khiến chúng tôi đeo đuổi việc giải mã di sản tiền nhân này. Bài viết thay cho nén hương của người ly khách.
laiquangnam
 
Bài thứ ba
 
Dẫn nhập, đây là bài thứ ba trong loạt bài di sản tiền nhân về đề tài BàiChòi. Từ Bài Chòi này được viết liền, nó là một thuật ngữ nhằm mục đích phân biệt với trò chơi Bài Chòi như bạn đã thấy trên YOUTUBE khi gõ Bài chòi Hoi An. Có vài từ hay nhiều đoạn bạn chưa quen do bởi các ý tưởng này chúng tôi đã đề cập kỹ ở hai bài viết trước tại các link (1, 2) trước đây.
 
I- Cội nguồn BàiChòi**
 
Cái nôi của BàiChòi hay BÀI CHÒI THUẬN QUẢNG là đất Đông Yên. Một là, đây là quê mẹ của các vị chúa lừng danh nhất thời chúa Nguyễn, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần. Vào lúc này bà góa bụa. Chúa Hiền yêu cầu lập một “cái gì đó cho mẹ ta khuây khỏa với các cung nữ hầu cận”. Hai là, nơi đây là nơi duy nhất của đất nước này đã ghi dấu những từ cổ của người Quảng Nam. Nay còn tồn tại trên mỗi lá bài, đó là tên ID. Ba là, Người dân nơi đây hiểu và lập được sự liên thông từ tên TÊN ID, tên ghi bằng thứ chữ alphabet cổ xưa trên đầu mỗi lá bài sang tên dân gian xuất hiện trong các câu hô thai có tên dân gian, tức Nickname hiện nay. Bốn là, thời điểm sáng tác vào ngay sau ngày có cuộc chiến thắng đốt thuyền của người Hà Lan tại cửa THUẬN và vùng biển Cù Lao Chàm thuộc địa phận đất Quảng Nam, lúc này vượng khí dân tộc lên cao. Sự hưng phấn của quốc gia xảy ra khi có sự thay đổi chế độ chính trị hay thay đổi người cầm quyền, hay sau một chiến công hiển hách, hoặc khi có một biến cố đau lòng có thể thay đổi số phận của nhiều người, lúc này quốc gia sẽ có nhiều khởi sắc và sáng tạo. Bộ bài ta đã ra đời trong bối cảnh như thế. (3, 4)
 
Bạn ta còn lạ gì tính cách của sắc dân này. Sắc dân liều mạng và thuộc tinh hay cãi/cải. Họ không bao giờ tự bằng lòng với cái đang có, ngay cả tô mì quảng của họ thường ăn cũng đã thể hiện một điều như thế. Mỗi nơi nấu một cách, tất cả đều hợp cách sao cho được người ngợi khen ngon là được. Đó chỉ là món ăn chơi vậy mà họ chưa hề dừng mọi sự cải thiện. Ước mong một xã hội tốt đẹp hơn. Are you OK? Ổn không? Tốt hơn không? Mọi thứ đẹp hơn không?  ỔN, nay là điều khiến họ ưu tư.
 
Như giọt nước tràn ly, lúc này xã hội đã quá sức tồi tệ, 1695- 1696. Tại xã hội Đàng Trong, lúc đó có hai nhân vật dị thường cùng lúc xuất hiện. Một là Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu và hai là nhà sư Thích Đại Sán từ Quảng Đông sang. Sự xuất hiện của cặp đôi này khiến xã hội Đàng Trong đi vào một khúc quanh lịch sử và khiến sự tồn vong của dân tộc bị vướng bẩn và bộ bài đã ra đời. Làm thế nào để răn đe, để đưa ra lời cảnh báo khôn dại khi mà gia đình mình vẫn muốn mình được sống? Dựng một xã hội tốt hơn, lý tưởng hơn, dân thích vậy mà người Cầm quyền không thích. Người đời sau làm sao thấy? Họ có thể tiếp tục được công việc truyền tín hiệu dại khôn đến người cầm quyền? Và điều tất phải có là, tất cả đều ưu tư của TIỀN NHÂN đều phải được thể hiện qua từng lá bài của bộ bài này. Họ đã làm được.
 
Hạnh phúc được gọi là bền vững khi mà "Ai đó" cũng đều phải thấy trong từng mỗi bữa cơm gia đình, niềm vui hiện ra trên khuôn mặt rạng rỡ, nét tươi trẻ của người mẹ, người vợ, và của các đứa trẻ thơ bên người chồng an lành sau một ngày mệt nhọc. Đó phải là ước mơ cháy bỏng. Vậy cần phải lên tiếng. Ai là người đại diện và Ai can đảm lên tiếng? Chỉ còn trông cậy vào người Phụ nữ Lạc Việt.
 
Vậy nền tảng chinh là sự quan tâm của toàn xã hội khi cùng nghĩ đến cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội này. Phải dẹp tận gốc cội nguồn các nỗi khổ đau của Người phụ nữ là điều tiên quyết. Nguyên nhân chính là đâu? Xã hội này do đám người đàn ông cầm chịch. Nay là lúc cần chỉ tay vào tận trán của họ. Họ là ai?
 
Tàu đô hộ ta hàng ngàn năm. Mọi người trong xã hội VIỆT đều bị nhiễm bẩn Văn hóa Tàu. Lạ làm sao, chẳng thấy có mấy Ai đã ưu tư về sự tác hại đó? Không. Nay là lúc dân ta phải thoát ra cái Luật Tam Tòng. Cái học thuyết quỷ quyệt của Nho gia phương Bắc. “Thuận trời thì sống, nghịch trời là chết“, nay biến thành “Luật Cam Chịu”. Nó như vòng kim cô áp lên trán người dân. Từ đó, ta đã tự hèn hóa thấy rõ. Cái gì cũng sợ. Nếu 2000 năm trước đây mà tiền nhân ta tự cho mình là khôn, tự thờ cái “Luật Thuận Thiên”, cái ”Luật CAM CHỊU“ ấy thì làm gì có cuộc khởi nghiã của Hai Bà TRƯNG. Đất nước này e đã bị xóa sổ! Sao mãi mà chưa đủ khôn. Nay có quá nhiều người Việt cam tâm làm trâu ngựa cõng "hán"? sđd (3)
 
Vốn cam chịu, người phụ nữ LẠC VIỆT không hề chia sớt nỗi khổ với cánh đàn ông; nay là chồng, là cha, là anh, là em của mình. Họ nay đã can đảm bạch hóa. Con có khóc mẹ mới cho bú!. Người cầm chịch, “nhà vua” là kẻ phải chịu trách nhiệm. Ông ta không sao trốn hay chối cãi được. Ông ta cho dù có chết xuống mồ thì nay, Họ cũng phải lôi đầu ông ta ngồi dậy mà nghe hạch tội. Luật “ Nghĩa tử là nghĩa tận“! Chết là hết! Sự tử tế này chỉ dành cho người bình thường và người thân. Luật không hề bao dung cho người đã từng nắm vận mệnh quốc gia. Bọn họ đã ăn trên ngồi chốc trên đầu toàn dân tộc này thì nay là lúc triệu tập họ phải ra hầu tòa án lương tâm. Đó là một sự răn đe cho thế hệ người cầm quyền mai sau. Nay, người sống không thể đào mồ được thì….? Hãy viết sách lịch sử, không viết sách được thì hãy làm vài câu ca dao truyền khẩu. Cả hai giải pháp vừa kể đều không ổn. Tại sao? Do một số đông quần chúng còn không biết chữ, nhất là giới nữ. Vậy, sự truyền bá kia ắt sẽ bị giới hạn, người nghe do khó tiếp cận. Hỏng. Lối ra là làm bộ bài với các hình vẽ ẩn dụ. Trước là trò chơi giải trí; sau là bia ghi tội ác đời đời. Lời tố cáo tội ác sẽ được lắng nghe đến muôn đời sau. Đâu có gì hay hơn bằng cách rỉ vào tai người, đúng vào lúc mà các con người bình dân này và con trẻ cùng ngồi chơi chung trong một chiếu bạc; vui trong ba ngày tết. đó là thời gian để các điều kể trên của tiền nhân được thấm sâu.
 
II- Những điều chưa biết về cấu trúc bộ bài ta & lá bài ta (2)
 
Không rời bỏ câu chào hỏi hằng ngày của người Lạc Việt, Anh khỏe không?, OK chỉ có thể hiện thực nếu như Ai đó làm biến mất thực trạng xã hội nhếch nhác hiện nay một cách triệt để?
 
Có hai hình thức chấm dứt một ván bài. Một là cách chơi “TỚI” có nghĩa là hết các lá bài rác trên tay. Khi mà mọi lá bài đều đã được bắt cặp gồm hai lá bài giống nhau là hết rác. Hai là, “lật bài so cựa” các loại kết hợp ba, bốn…. từ đó tính hơn thua, chung chi tiền bạc bằng luật ĐÈ. Giá trị lớn đè giá trị nhỏ. Các loại bài bạc của Tàu như Mã điếu, Kon p’ai, Đông Quan Pai-Kwan Pai, tứ sắc, mạc chược đều là loại bài bạc có đủ cả hai. Vượt lên trên điều đã có, BàiChòi còn được gọi là “Bài ta” xuất hiện hoàn toàn khác biệt. Nó có cung cách thiết kế vượt ngoài quy ước vốn đã có của hai loại bài bạc sừng sỏ từ Tây là Xì ách sang đến Đông là Mã điếu, Mạc chược, tứ sắc....
 
Việc xây dựng phép chơi cao thấp, phức tạp, so cạ trong nghề đánh bạc đều bị loại bỏ sạch. Các thủ thuật (số con bài nền) x4 bị loại bỏ. Phép chơi tới chỉ đòi hỏi cần chỉnh lại sự lặp lại một lần. (số con bài nền) X2 là đủ. Hên xui là chính. Do vì chọn phép chơi tới (số lá bài nền) X2, thế nên 60 lá bài là con số tối ưu. 60 là số chia hết cho 2, 3, 4, 5 và 6. Vậy số lá bài nền là 30, từ đó mỗi tuyến là 10 lá bài.
 
Không “ổn”, do vì xã hội xấu xa này đang có hai loại đàn ông. Loại đàn ông làm quan lưu manh và loại đàn ông lười biếng du côn. Họ làm cho người phụ nữ cam chịu, bị thua thiệt. Sự bất ổn xảy ra trên ba tuyến. Bộ Bài Ta chỉ có ba mươi lá bài nền và được phân đều cho ba tuyến.
 
Bài Ta là từ chung chung để gọi cổ bài tới, bài trùng. Đó là một loại bài khác, chúng tôi tạm gọi là GPC. GP-card - Game Pseudo Card. Đây là thứ bài mà không có “bạc” nghĩa là không nhằm sát phạt ăn thua, gây đau khổ cho chính người chơi và gia đình họ. Và bộ Bài Ta chỉ có một cách chơi duy nhất là tới. Tới là kết thúc một ván bài. Hên xui may rủi như xổ số. Mọi ván bài đều có cùng giá trị để chung tiền cho người thắng cuộc. Việc thiết kế loại bài này rất đơn giản. Tuy nhiên, do vì cách chơi quá đơn giản thế nên, nó chỉ hâp dẫn với các bà và đám trẻ con do bởi mau chán. Bọn đàn ông không ham do vì không ăn được nhiều tiền. Vậy mà nó đã tồn tại đến mấy trăm năm. Tại sao thế? Nó thật sự mang lại một niềm vui cho người chơi bài dài lâu đến như thế?  Tiền nhân ta đã dùng giải pháp GHÉP TỐI ƯU.
 
Thủ thuật GHÉP TỐI ƯU là gì? Người xưa họ đã ghép tiếng cười và sự chọn lọc tên ID một cách tinh tế, cộng với dăm ba nét vẽ “độc đáo” mà mình thoạt nhìn những tưởng là quái dị. Dựng ngay lại hiện trường mà họ đang sống làm người chơi bài sẽ thấy gần gủi với đời thường và yêu thích nó hơn. Qua đó, Người Xưa đã lồng vào các đề xuất tối ưu thoát "hán". Tuyệt đối, Người Xưa đã chận từ xa, họ không hề để cho bất cứ “Ai đó” muốn có một cải tiến nào đó để có thể đưa bộ bài này thành một bộ bài sát phạt, xuất hiện trong dân. Nghề cờ bạc không được phép phát triển. Không ai ăn đậm và cũng không ai thua đậm khi chơi bài này.
 
III-Xây dựng một lá bài và xây dựng từng tuyến bài.
 
III-1- Phần phác họa lý thuyết tổng quát
 
III -1-1a) Xây dựng lý thuyết một lá bài.
 
Dựng ngay lại hiện trường mà họ đang sống. Sau đó đưa ra giải pháp tối ưu. Tuyệt đối không để cho bất cứ bộ bài sát phạt nào có trong dân. Nghề cờ bạc không được phép phát triển.
 
Chọn lá bài hình thẻ xăm, do vì có các điều tối ưu. Quen mắt, thân thuộc, dễ tìm vật liệu tre nứa, giấy bồi, dễ thực hiện vả lại, khá giống thẻ các Xăm trong các đền chùa hay trước mặt thầy bói, cuối cùng dễ gom trọn lòng bàn tay bài nhiều lá bài Tới đã được phân bố cho tay chơi bài. Mỗi thẻ chia theo chiều dọc làm bốn ô:
 
- Ô thứ nhất ghi tên gọi chính thức ID. Chọn loại chữ alphabet, thứ chữ của ngày mai. Phải thoát "hán".
 
- Ô thứ hai ghi chữ Hán. Chữ Hán bắt buộc tồn tại trong thời gian chuyển mùa nhưng? và tại sao?. Kín kẽ, Phải triệt ảnh hưởng của người “hán” mọi lúc mọi nơi.
 
- Ô thứ ba là ô lớn nhất, ghi hình vẽ hình ảnh nhân vật, ô chính với vài nét vẽ đặc trưng nhưng không được gây nhầm lẫn.
 
- Ô thứ tư là ô tham khảo. Ô này làm rõ những gì mà ô thứ ba thể hiện không đầy đủ về ý hay về hình, khi ai đó có thể hiểu sai về thuộc tính nhân vật.
 
III -1-1b) Xây dựng lý thuyết từng tuyến bài
 
Mỗi tuyến bài có mười lá bài. Lá bài đầu tiên luôn nêu thuộc tính cho mọi nhân vật trong cùng tuyến đó. Đó là kiếp nạn mà người phụ nữ Lạc Việt phải gánh chịu. Nạn có lớp. Lớp nhẹ và Lớp nặng. Lớp “nhẹ” được TUYET nhắc nhở nhẹ nhàng. Cá nhân bị bêu rếu có thể tự mình điều chỉnh được. Nó gồm các số mang bậc [1, 2, 3] đến số mang bậc [4] là “biến cố”. Tại đây tạo ra được một sự gãy khúc. Các số mang bậc [5, 6, 7, 8, 9] là lớp cuối, bọn nó đã lún quá sâu. Vô phương chuyển hóa. Nhắc, nhắc mãi. Mặt mo dẫu có dày cũng phải có lúc nhìn lại mình. Xã hội này những ai có liên quan đến họ cần đặc biệt quan tâm. Nhắc nhở cho đến cháu con mình cùng xóm giềng biết mà đề phòng. Số 10 không xuất hiện. Nó dành cho một nhân vật “đầu sỏ“. Lá bài này phải có dấu hiệu riêng. Dấu đỏ được đóng vào hình vẽ. Dấu đỏ là dấu ấn của nhà vua, là bùa công vụ do các Quan Bờm cấp. Họ đã xây dựng ba tuyến Quan Bờm, "ĐẦN ÔNG" và tuyến Người phụ nữ bất hạnh với nhiều đặc điểm đặc trưng.
 
III -2) Xây dựng thực tế trên một lá bài, một tuyến bài.
 
III -2 -1 ) Xây dựng thực tế lá bài thứ nhất, lá bài trọng điểm

Từ mục tiêu đã được phác họa, thiết kế áp sát trên lá bài đầu tiên. Chọn ai làm đặc trưng cho bộ bài? Nó thuộc tuyến nào? Có sáu yếu tố khiến họ phải xây dựng lá bài "trọng tâm" này một cách nghiêm túc và minh triết.
 
A- “Hãy chăm sóc người phụ nữ trong chính gia đình mình. Họ là những cánh hoa dễ vỡ. Họ đã từng là người từ mẫu của mình, họ là mẹ các con mình”.
 
B- Cách đây 2000 năm, hai người phụ nữ đã khởi binh nổi dậy đánh đuổi quân Tàu phương Bắc. Tàu đã có kinh nghiệm chiến tranh trên dưới 1000 năm. Người phụ nữ đã dành độc lâp cho dân tộc này được ba năm, mãi đến gần 1000 năm sau, người đàn ông Việt mới làm được điều như thế một cách vững bền. Vậy, hình ảnh người phụ nữ trẻ trung trinh phải được thể hiện như thế nào để nét đẹp này hiện hữu?
 
C- Ngày nay, người phụ nữ Lạc Việt lại là người hay giấu dòng nước mắt trong khi ngồi một mình. Bà ưu tư khi thấy chồng con mình sao mà vất vả. Nếu chẳng may con bà, chồng bà bị bọn Quan Bờm vu oan giá họa, dùng tay bọn sai nha đánh cho đến chết "người phản kháng sự hà khắc" thì bà và đám con gái còn lại lãnh đủ cho những ngày tăm tối trước mặt. Ai, nay là bọn Người Việt ăn thịt người Việt? Tại sao lại bọn đàn ông Việt có học đa phần lại làm thinh? Làm thinh vì lý do nào? Họ là những ai? Nói mà chết cũng là người hữu ích cơ mà!
 
D- “Một dạ tuyết trinh, vì tổ quốc, vì bầy con mình, vì sự vững bền của gia đình mình, vì hạnh phúc của cá nhân mình. “KHỎE“ là âm trên đầu môi mỗi người Việt hằng ngày".
 
Kết hợp các ưu tư C & D, lá bài phải ghi lời của Họ. Họ phải đại diện cho xã hội này lên tiếng cùng vị “lãnh chúa” trong cái xã hội mà y cầm quyền. Lá bài này mang thuộc tính NỮ. Nó phải là lá bài đầu tiên và duy nhất. Lá bài ghi lời nói với nội dung “nhân danh người đã trưởng thành tôi xin thưa cùng... Tử /Thái tử rằng”,......., ba chữ thu gọn ”Đinh khẩu bạch” [丁口 白] đã được chọn. Cụm từ được xếp gọn tại ô thứ hai. Che mắt. Kín kẽ. Nàng nói gì vậy? Cảnh cáo gì vậy?
 
E- Chọn lấy một cái tên chính thức để gọi lá bài này. Tên không bị thay đổi theo thời gian và không gian.
 
Tên ID được chọn là “TUYET”, không dấu. Đọc hiểu là Tuyết? Tuyệt? Trọn ý?
 
F- thực hiện hình vẽ thể hiện nhân vật có ID là TUYET bên trên. Tên này phải thể hiện đầy đủ hai thuộc tính, một là cao đẹp, hai là nỗi đau đầu đời của người phụ nữ Lạc Việt.
 baichoi disan3 1
 
*-Thể hiện phẩm chất cao đẹp
 
Tên ID TUYET. Đọc là Tuyệt. Tuyệt là cái tốt nhất, cái hoàn hảo nhất, cái làm cho ta bằng lòng nhất. Đọc là Tuyết thì hiểu trong tinh thần tích cực này. Tuyết lúc này có mấy nghĩa? Tại Ô thứ tư, ô thuyết minh, có vẽ mờ ảo một con kỳ lân chồm lên. Nàng thật sự là một con kỳ lân xuất thế. Lân nhắc lại thuộc tính có trong tâm hồn người phụ nữ của sắc dân Lạc Việt. Họ luôn là người xông ra phía trước khi dân tộc này mấp mém bờ tồn vong. Năm xưa trong huyền sử, nàng chia 50/50 trách nhiệm với chồng. Kỳ lân báo điềm lành cho tổ quốc. Chính ô này dẫn dắt ngôn ngữ dưới tên ID “Tuyệt”. Nếu đọc là “Tuyết”, khi nghĩa tích cực. TUYẾT là trong sạch. Hơi nước trên trời cao gặp lạnh thành bông tuyết rơi xuống trần. Còn gì đẹp hơn, sạch hơn tinh khiết hơn và dễ vỡ hơn. "Sương cân tuyết cốt” là cốt cách thanh cao. “Sạch như nước, trắng như ngà, trong như Tuyết” (NCT). Đó là phẩm giá người phụ nữ Lạc Việt. Thượng đế đã cho giống nòi này những người đàn bà hoàn hảo. Đừng quên rằng họ có đại diện là người anh hùng đầu tiên của dân tôc này, ghi rõ ràng trong sử sách. Đừng quên rằng họ là người từ mẫu ngay lúc mình mới được sinh ra. Đừng quên rằng khi khó khăn bị áp bức, họ hay ngồi khóc thầm, họ dấu niềm đau trước mặt chồng hay con cái họ. Luật Cam Chiụ từ nho gia Tàu qua ta nay khó bỏ. Chỉ có những người đàn ông đui mù mới không biết việc gì đã xảy ra cho người người phụ nữ đã từng gắn bó với họ. Lady first là vậy!.
 
**-Thể hiện lời phản kháng.
 
Tại sao có sự kháng cự? Do vì 9 nỗi khổ đeo bám. TUYET, nay đọc là tuyết là từ tiêu cực. Nàng là người mạnh mẽ. ”đinh khẩu bạch” sợ gì ai!. Bà muốn chuyển tải được các nỗi bất hạnh của người phụ nữ Lạc Việt trong thế giới mà nàng đang sống đến người cầm chịch quốc gia. Nói hoài, nói mãi, nói cho đến khi câu chào, Anh khỏe không? Are you OK? Nói cho bỏ thói CỘC, ĐỘC TÀI, GIA TRƯỞNG, CỬA QUYỀN của bọn người đàn ông chịu ảnh hưởng văn hóa Hán tộc khi ấy ắt sẽ hiện ra nét rạng rở trên môi mỗi thành viên trong gia đình dân tộc Việt.
 
Khổ đầu tiên của người phụ nữ là nàng không may bị khiếm khuyết ở vùng kín trong cơ thể mình. Phác họa cách điệu một cánh hoa tuyết trông như một cọng rong rêu thật rõ nét, có nhánh, có lá. Thế là đủ. Rong rêu là một hình ảnh tiêu cực khi con người bị bỏ rơi. Khẩu ngữ Việt có câu than thân trách phận, “phận bạc rong rêu”. Theo thời gian, từ hình ảnh “rêu” giông giống mấy cộng “lông” trôi bềnh bồng. Biến nghĩa theo thời gian. Chính chữ "hán" ở ô thứ hai có chữ bạch /白/ trong lời nói kết hợp với “tuyết” chữ alphabet ở ô thứ nhất thành “bạch tuyết“. Trắng như tuyết, nay mang nghĩa tiêu cực, biến sâu về cách dùng. Trắng hếu!. Nickname “Bạch huê” xuất hiện. Ý đồ thứ hai đã thành công. Bạch tuyết là gì? Đó là nỗi đau đầu đời khó nói. Chỉ vì mình thiếu mấy cái “cọng lông” nên hơi khác người ta!. Vì thuộc tính đội "hán" các anh người đần ông nhà mình tin rằng “phụ nữ mà thiếu rong rêu, xui đến chia lìa, ngóc cổ không lên!“. Ngoài ra, Tuyết là một từ Việt cổ nay còn vết trong câu thơ của Lê Thánh Tông thế kỷ 15.
 
Cắp cầm con Tuyết tình cờ đến
Bỏ nón chùi chân khặc khặc cười

(Hồng Đức Quốc Âm thi tập)
 
Tuyết đây là người ca kỹ xuất thân từ thanh lâu. Nàng không làm “đĩ“, nàng chỉ đến để đàn và ca hát, hầu rượu giúp vui cho các đại quan hay các nhà quyền quý giàu có mỗi khi họ có bè bạn. Họ cần một người nữ có chút nhan sắc, chút “chịu chơi”, có chữ nghĩa để có thể thêm tay thơ trong việc xướng họa cùng họ.
 
Thói quen xấu nhất của người biên khảo là coi mặt đặt tên. Hình vẽ mình không nhìn kỹ, săm soi, vội vàng cho là bí ẩn, ngô nghê, trừ trường hợp sau; trên chiếu bài chỉ có toàn quý bà, gặp lúc vui quý bà nói cũng trây lắm. "Ai đó" thấy cộng rong rêu vẽ sao mà cũng giông giống cái HOA của nhà mình, tủm tỉm cười.!.? Trên lá bài tại ô thứ hai có chữ bạch. Ghép đọc liền “Bạch tuyết“. Theo thời gian biến thành “bạch huê”. Cái nhìn, HUÊ đầy tiếu lâm, họ cùng cất tiếng cười. Có khi cả ba bốn thế hệ lệch tuổi tác cùng trong chiếu bạc, cùng cười vang mà không thấy sự dung tục. Thực tế nhiều anh Hiệu nhà mình né hô trực diện L hay C thế nhưng các MỆ tại Cố đô HUẾ thì chả chút ngại ngùng. Người bình dân trong ba ngày tết, lòng mở rộng, tên tục/Nickname vừa xuất hiện này được cộng đồng chấp nhận với một nụ cười!. Tuyết là trong, là trắng. Bạch tuyết là trắng hếu. Thế nên có lời hô thai như vầy:
 
- Tiếc thay cây mía ngọt lại sâu
Tiếc con gái tốt mà cái bím bầu không lông

(từ BS. Hồ Đắc Duy)
 
Hay chị Hiệu Hội An hát câu với sự tự tin khi rút thể bài TUYET:
 
Của ni là của để dành
Có mà Thái tử cũng đành đứng xa!. . .
…+. tùy…. không khí mà dài ngắn thanh tục….
 
Do việc Chúa Nguyễn Phúc Chu rước Thích Đại Sán qua, một giai tầng mới thành hình. Nhiều “anh có ăn học” bấy giờ do vì trượt kỳ thi HƯƠNG, họ phải dùng vốn chữ Tàu ít ỏi để làm kế mưu sinh. Họ hành nghề bói toán, họ lấy tử vi, họ đoán số mệnh, giải mộng, suy đoán theo tướng số Tàu, Nàng bị ám ảnh do vì cho là người thủ phạm mang lại cái xui xẻo cho gia đình chồng. Người gì mà hể gặp là xui thấy bà cố!. Thế nên, Tuyết còn có nghĩa là thanh minh để giải tỏa nỗi oan khiên. Nàng than thở, (4*)
 
Đâu vì thiếu sợi rong rêu,
Đời mình rước lấy hiểm nghèo thế ư?
 
Thời chiến tranh, lính tráng về thành phố sợ đá “sân xi măng” nằng nặc đòi đá sân cỏ mượt, cho hên. Trời đất!
 
III-2-2) Xây dựng tuyến thực tế thứ nhất*
 
(* Tức là tuyến III trong bài viết trước đây)
 
“Người Phụ Nữ Bất Hạnh”. Tuyến này có gì? Tuyến dành cho những AI thường nhỏ giọt nước mắt cam chịu“
 baichoi disan3 2
 
1- Lá bài ẩn dụ đầu tiên là TUYET. Và thuộc tính của nó thì Bạn ta đã biết ở trên.
 
Đa phần người Việt bình dân hiện nay hiểu đây là lá bài "BẠCH HUÊ". "Bạch Huê chỉ đại nạn thứ nhất (đầu đời) trong mười đại nạn của người phụ nữ Đại Việt thời ấy. Trong tuyến người phụ nữ bất hạnh thì Tuyết là người phụ nữ bất hạnh đầu tiên. Do nàng có chút khuyết tật vì thiếu mấy cọng lông dưới rún. Người Việt, cánh đàn ông có ăn học nay lậm văn hóa "hán" cũng khá nhiều. Văn hóa này dạy người "ĐẦN ÔNG " phải săm soi trong háng của họ trước khi lấy làm vợ. Phải có rong rêu, nếu không có Rong rêu là mình và gia đình rước sự xui xẻo. Phẩm chất của “nàng” như thế nào Bạn ta đã biết ở phần trên, phần mổ xẻ một lá bài mẫu, lá bài Tuyết, nay tôi xin không nhắc lại
 
2- Lá bài thứ hai, tên ID là HAI. Nickname là BÀNH HAI, BÁNH HAI (5).
 
Tiếng Quảng Nam Bành Hai. Bành có nghiã là gì? Bành là động từ có nghĩa là banh ra, là tách xa ra. Bành hai là tách làm hai riêng biệt. Người chơi bài ngày nay thường đọc là “bánh”. Âm Bánh có lẽ do trông mặt mà bắt hình dong. Ở đây là một khổ nạn, tiêu cực. Xin gọi đúng tên là Bành Hai. Đó là sự chia lìa. Nguyên do là có sự bàn ra tán vào của những người xấu miệng. Người này đã làm hỏng cuộc hôn nhân lứa đôi của họ. Sâu xa nhất là từ “mụ âm ầm”. Mụ ẦM phán, xung khắc tuổi tác “Dần Thân Tị Hợi”, “Thìn Tuất Sửu Mùi”… v.v. …khiến thân nhân bên nhà chồng quợn. Họ khổ. Tất cả cũng vì luật Cam chịu và từ văn hóa Tàu mà ra.
 
3- Lá bài thứ ba, Tên ID là Ba. Nickname là BÀNH BA hay còn gọi là BÁNH BA.
 
Một người đàn ông có hai người đàn bà. Bành Ba, hoặc Bánh Ba là đại nạn thứ ba. Hôn nhân như một miếng bánh cho người đàn ông ham hố. Hạnh phúc lứa đôi nay buộc người phụ nữ phải chia sẻ cho người thứ ba. Hoặc có trường hợp người phụ nữ cam chịu làm lẻ. "Nỗi lòng ai có qua cầu mới hay, Kiều". Một xã hội theo Tàu thuở ấy vẫn còn nhìn người phụ nữ một cách khắc nghiệt. Khi người phụ nữ là góa phụ tuy còn rất trẻ, có khi đầy sức sống, đẹp gái vậy mà nàng cũng khó mà lập gia đình với một người con trai chưa vợ. Cô đơn, cô thế, mưa lâu thấm đất, các ông nội Quan Bờm và đám Đỏ mỏ nhào vô giăng bẫy. Bà Góa! (5)
 
4- Lá bài thứ tư, Đại nạn thứ tư, tên ID là VOI, Nickname DÁI VOI hay TỨ TƯỢNG.
 
Đây là lá bài thứ tư, lá bài chuyển hướng. Một biến cố trong đời người phụ nữ. Dái voi là gì? Một là, Dái nghĩa đen là gì thì Bạn ta đã biết. Có chồng “dái voi” biết than thở cùng ai trong cái xã hội khép kín ấy. Dễ gì nhả ra khi đêm về. Hành hạ nàng khi hắn muốn, cho dù nàng có chịu hay không. Hành vi đó được xem như là bạo hành, là hiếp dâm. Luật lệ đâu đủ kín mà đề cập đến chuyện “nhỏ” mà không nhỏ chút nào. Hai là, Nàng là nạn nhân của đám vô lại, đám “ngũ đụm”. Nickname Tứ tượng là bốn con voi. Bốn con voi mà giày, mà cày thì còn gì vườn “Hoa liễu”. Nàng đã bị hiếp dâm tập thể. Bọn chúng là con quan, bọn quỷ sứ, bọn côn đồ. Một đại nạn thảm khốc trong đời người phụ nữ. Xem hình vẽ là Bạn Ta biết “mảnh vườn” của họ tan hoang ra sao. Đây là lời than khóc và lên án nặng về xã hội do TỬ điều hành. “Đinh khẩu bạch” rằng ông phải chịu trách nhiệm.
 
5- Lá bài thứ năm, Đại nạn thứ năm, tên ID là RÚN, Nickname là NĂM RÚN.
 
Lúc này đây, tuyến đã chuyển sang cung bậc nặng hơn. Đời người phụ nữ trở nên nghiệt ngã hơn. Sau khi bị đám TỨ TƯỢNG hiếp, nàng phải làm nghề bán thân nuôi miệng, tự mưu sinh. Là đứa con hiếu thảo, nàng biết mẹ cha mình sẽ rất buồn khi bắt gặp tại chốn lầu xanh. Tại các làng quê thường có những cảnh gia đình mất con gái, cha mẹ không biết con mình đã đi đâu, tự nhiên mất tích. Họ nằm trong đám người phụ nữ đã bỏ xứ, bỏ gia đình, bỏ cha mẹ, bỏ anh chị em mà ra đi. Nàng coi như mình đã chết!. Gạt lệ. Người từ mẫu, người cha già thấy con lâu về lập bàn thờ nhang khói tiếc thương. Cùng là phận người, nay mang thân làm đĩ, tối ngày phơi rún cho đàn ông sờ sờ nắn nắn v.v... và v.v.... Cảm thương. Một xã hội của những người người đàn ông điếm đàng!. “Đinh khẩu bạch” rằng ông phải chịu trách nhiệm.
 
Bạn ta có biết trong đời sống của người phụ nữ Lạc Việt có một âm lạnh người?, _âm TIỀN.
 
6- Lá bài thứ sáu, Đại nạn thứ sáu, tên ID là 6 TIỀN, Nickname là SÁU TIỀN.
 
Nàng quá nghèo. Mồ côi từ tấm bé, không người nương tựa, không ai giúp đỡ lúc khốn cùng. Bán sức lao động tự thân là chính vậy mà, cũng không tự nuôi nổi bản thân. Khi có người đàn ông nào đó thương mình, họ cũng không đủ tiền để nộp cheo cho làng, một cái “chuồng” để qua đêm cùng chồng cũng không.
 
7- Lá bài thứ bảy, Đại nạn thứ bảy, tên ID là LIỄU, Nickname là BẢY LIỄU, hay THẤT LIỄU.
 
Bảy là thứ bậc tiếp sau bậc sáu. Bảy là số đếm. Thất cũng là bảy, đó là từ Hán Việt. Thế nhưng thất cũng là mất. Nỗi khổ thứ bảy là thất liễu. Thất liễu là mất cái ngàn vàng. Nàng bị "vùi hoa dập liễu” do hiện tượng áp bức từ một cái xã hội nhếch nhác ấy. Người phụ nữ bị đàn ông có chức có quyền hãm hiếp, hay vì lý do nào đó khiến họ tiêu đời trinh nữ. Nàng hết cửa để có thể tự chọn cho mình một tấm chồng tử tế, theo như ước nguyện. Hình vẽ đã mô tả trực diện. Tả chân, khá dung tục. Tuồng như hình vẽ cho thấy có hai người đàn ông đang xâu xé một người phụ nữ có nhan sắc?
 
LIỄU là Người đẹp khó giữ mình trong cái xã hội do TỬ cầm đầu. Nàng đã bị đám quan lại bên này và đám bọn du côn bên kia dày vò, rơi vào đám nào cũng chết!.
 
Người xưa dùng từ THẤT LIỄU, gợi cho ta tình huống tình cảnh người con gái sinh trong một gia đình nghèo. Nàng là người có trách nhiệm, có lương tri nay là lúc nàng phải hy sinh cho các em còn nhỏ dại. “Bán trinh vì chút gia đình. Nỗi đau con chịu hiếu mình con thay”. Cao thượng thay. Đầu óc nàng mòng mòng Bạn Ta xem hình. Việc đời khó đoán. Thuộc tính là con KỲ LÂN tại ô thứ tư của lá bài TUYẾT cho thấy hành vi này. Toàn tuyến này đều có cùng phẩm chất của lá bài đầu tiên là vậy
 
8- Lá bài thứ tám, Đại nạn thứ tám, tên ID là 8 TIỀN, Nickname là TÁM TIỀN.
 
Như đã đề cập bên trên, âm “Tiền” luôn là nỗi ám cho các cô gái sinh ra trong gia đình nghèo khó. Ách nạn quá nghèo lần thứ nhất là Sáu tiền, nay là ách nạn thứ hai TÁM TIỀN. Nỗi khổ bậc tám. Mẹ cha nàng vì nghèo khó, mang con bán gả cho chỗ có tiền. Ngày xưa các anh "ĐẦN ÔNG" thường sinh ra trong các gia đình giàu có. "ĐẦN ÔNG" luôn là mối lo cho cha mẹ anh. Cha mẹ muốn anh ta có một người vợ hiền thục, các bà mẹ này tiếp cận với cha mẹ nàng sau giai đoạn quan sát. Mưa lâu thấm đất, nhiều hứa hẹn và cha mẹ nàng ép gã cho nhà giàu để hy vọng con mình được sung sướng. Ngày ấy cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Nào hay, khi ván đã đóng thuyền, nàng trở thành người đầy tớ cho nhà chồng, dưới dạng vợ của một công tử nhà giàu. Tất cả đều do việc tiếp nhận văn hóa Hán tộc mà ra. Nạn tảo hôn. Người phụ nữ cô thế cam đành chịu chết một đời nếu như nàng không sinh cho đám nhà giàu ấy một đứa con trai. Đội "hán" hoài không thấy nặng cái đầu hay sao các cụ?
 
9- Lá bài thứ chín, Đại nạn thứ chín, tên ID là XE, Nickname là CHÍN XE hay CHÍN GHE (6)
 
XE có nghĩa là SE, từ se xuất hiện trong từ se sắt. Hình vẽ từ nền lá bài 6 Tiền, giữa xâu có chiếc đũa siết chặt các đồng tiền lại với nhau. Có hai trường hợp, một là, nàng là con gái lớn, cha mẹ ốm đau không có chút tiền lo thuốc thang. Hai là, lấy chồng vạn đò, sống trong khoang ghe, rày đây mai đó. Nàng quá đỗi cô đơn, không người tâm sự hiểu mình. Di dịch chỗ ở thường xuyên. Nàng bị tách rời khỏi bè bạn, thân nhân trên bờ. Nỗi lòng biết tỏ cùng ai.
 
“Lỡ khi trở gió tắt đèn,
Biết ai nhờ cậy khó khăn lúc này,
Mẹ già như chuối chín cây,
Khuya hôm đau yếu, Bến này khóc khan“

(hô thai, lá bài 9 GHE, hay 9 XE)
 
.. Nỗi khổ lớn nhất của đời người là không người chia sẻ tâm tư. Ai lại không có lúc rối trí, bấn cùng, huống gì họ là người phụ nữ vạn đò. Sống là chia sẻ tâm tư, phần chia sẻ này có nhu cầu gấp bội so với các nhu cầu khác của loài người. Tiền nhân ta đã xếp nó vào bậc khổ đau thứ chín là vậy.
 
10- Lá bài thứ mười. Đây là ác quỷ. ÂM ẦM.
 
Riêng cõi âm. Như đã trình bày ở trên, không có lá bài thứ 10, chỉ có lá bài đặc biệt có dấu đỏ. Đây chính lá bài tối cao điều khiển âm binh. ẦM là tên ID, Nickname là ÂM ẦM.
 
Kẻ tai ác sinh ra từ văn hóa Tàu. Người Việt rước về và dung dưỡng. Người thật mà phán về thế giới cõi âm. Xạo sự. Thực tế đây là kẻ sống nhờ vào yếu tố tâm linh do mê tín. Thế giới ÂM ẦM hoạt động sau cánh cửa màu đỏ của đền miếu hay của chùa chiền trong cánh Phật Hán. Từ khi nhà sư Thích Đại Sán sang ta thì sự mê tín dị đoan càng tăng cao. Ngay cả Chúa Minh-Nguyễn Phúc Chu cũng bị lụy huống gì người dân ít học hành. Chính Âm Ầm là kẻ gây ra sự khổ đau cho người phụ nữ, từ hành vi coi tướng số, bói vận mệnh, dương sao hạn, lấy tử vi.
 
Thế nhưng trong xã hội do TỬ cầm đầu, TỬ có dấu đỏ là hình duy nhất đủ toàn thân, chính ông là VUA, là người trực tiếp xử dụng người có học là đám Quan Bờm. Chính ông xử dụng luôn đám côn đồ thất học, du côn; ông cấp cho người cầm đầu bọn sai nha này dấu đỏ, đó là BỌN ĐỎ MỎ. Chưa đủ, ông thò tay quản lý luôn “quyền lực cõi âm“, tâm linh, tôn giáo. ÂM ẦM thực ra là người của TỬ chứ chẳng ai khác!
 
III-2-3) Xây dựng tuyến thực tế thứ Hai
(* Tức là tuyến II trong bài trước đây)
 
- Tuyến "Bọn Đần ông" hay “Bọn sai nha, du côn hớn hở”
 baichoi disan3 3
 
Toàn TUYẾN này là những người đàn ông có thuộc tính lười biếng. Xưa nay kẻ làm biếng thường chọn con đường tay sai ngoại bang hay cho các Quan Bờm. Con đường tiến thân lên dần, tội ác tăng dần. Mô tả anh từ lúc là anh thiếu niên ăn cơm cha mẹ dần dà leo lên thành là kẻ chỉ huy bọn đầu trâu mặt ngựa, bọn làm sai nha đắc lực cho triều đình mục nát do TỬ cầm chịch.
 
1- Lá bài ẩn dụ đầu tiên, ID là ĐƯỢNG, Nickname NHỨT NỌC, NHẤT NỌC, NỌC ĐƯỢNG hay NỌC THƯỢC. Tục danh là C.
 
ĐƯỢNG là gì? Đây là từ chỉ sự làm biếng “Thầy chạy”. Tục ngữ Quảng Nam có câu “Đường đượng như chó liếm cối”. Đó là hình ảnh con chó chìa cái lưng dài sòng sọc dọc theo bên trong cối đá. Đầu chó gầm vào đáy liếm, chân chó vắt trên miệng cối. Chó mong được chút chả sống còn sót trong ngày giỗ chạp. Nhất là gì? Nhất là số một. Trong tiếng Việt, nhất là từ được dùng trong câu ao ước. Khẩu ngữ Quảng Nam có câu “Nhất mi rồi”. Mi là số một. Nhất trò rồi ! còn có nghĩa là chú mầy được chăm sóc kỹ. . Từ ID ấy sinh ra cái Nickname là NHẤT NỌC. Nọc là gì? Nọc là “cái cọc đàn ông“. Ta có từ “Heo nọc”. Vậy anh Nhất Nọc chỉ sống nhờ vào cái Cọc của nó ngoài ra chả tài cán chi. Tại Quảng Nam có câu chửi của người trưởng thượng đứa con trai lười biếng trong nhà mình là câu ”Cái thằng dài lưng mà làm biếng tổ cha!”, hay câu nặng hơn, ”Tau thấy mi không được cái chi hết, Mi được có mỗi cái con C thôi!”. “To đầu là dại, to dái là khôn“, đây là câu tục ngữ khôn dại tại cái xứ chịu văn hóa Hán tộc. Anh to đầu chắc là óc anh bự, anh khôn. Anh dại bởi anh đã để lộ cái khôn ra ngoài nên bị “triệt“ ngay lập tức. Người Quân tử thường đoản mạng tại cái xứ này, anh ngu anh không biết. Anh to dái, dái dấu sau cái quần, không ai mà thấy trừ các phu nhân của các Quan Bờm, khi họ “ngựa“. “Q to không lo chi đói” là vậy. Câu cà rỡn, nửa đùa nửa thật. Từ đây từ Nickname NỌC THƯỢC xuất hiện. Thược là từ thu gọn của cụm từ “dài thầm thược “, hay “dài thường thược”. Cái khôn của bọn “to Dái” là cái khôn tàn bạo, mất lương tri. Vậy là Toàn tuyến Đần Ông này tòan là bọn mất dạy du côn. Phác họa hình biểu trưng cho nhân vật này là “cái nớ “ của người đần ông. Nay chọn làm vật biểu trưng cho toàn nhóm. Khi "Ai đó" thấy một phần “Đầu gà, hột, hay cái Cọc hay toàn thân nọc thì hiểu hắn là ai và có những thuộc tính gì rồi.
 
2- Lá bài thứ hai, gian ác bậc hai, tên ID là NGHÈO, Nickname là NHÌ NGHÈO.
 
Nghèo không phải điều mà Tiền nhân ta mang ra bêu rếu. Người Xưa, thương người như thể thương thân. Không xúc phạm người nghèo. Thế nhưng, cái nghèo trong bộ bài ta này là do cái khí cốt làm biếng của anh "ĐẦN ÔNG". Vết ô nhục trong số 50 thằng con trai theo cha năm xưa. Hình vẽ là “Nghèo” giơ xương bánh chè.
 
3- Lá bài thứ ba, gian ác bậc ba, tên ID là GÀ, Nickname BA GÀ.
 
BA là số đếm, là bậc. Thế nhưng “ba” trong Việt ngữ còn là một prefix chỉ sự xấu xa. Ví dụ: ba Tàu là anh Tàu xấu xa. Ba hoa là thằng người Hoa xấu xa (7). Phải là từ tích cực thế nhưng, ba phải là từ tiêu cực. BA GÀ ắt là anh xấu xa. Anh này làm đâu hỏng việc đó do bởi thoát thai từ khí cốt làm biếng của anh nọc. Hình vẽ cái đầu của anh nhỏ xíu như cái đầu gà. Anh làm đâu hỏng đó. Khẩu ngữ Quảng Nam “Đồ cái thằng Ba Gà“. Câu này được dùng khi ta sai biểu ai làm một việc gì đó khá dễ mà y làm hỏng việc.
 
4- Lá bài thứ tư, gian ác bậc tư, tên ID là GIÓNG, Nickname TỨ GIÓNG.
 
Lá bài thứ tư chuyển bậc
 
GIÓNG là nhóng. Do vì âm gi <==> nh. Tứ Nhóng là anh chuyên hóng chuyện của thiên ha. Anh ngồi lê đôi mách. Quan Bờm dùng anh này làm tai mắt cho mình. Quan Bờm tỏ sự trung kiên với chế độ, lấy điểm với cấp trên mà mình phục vụ thì thường họ dùng bọn này để bắt bớ người có ý kiến chống lại chế độ. Anh sống bằng nghề “ngậm máu phun người“, đưa người lương thiện vào vòng lao lý. Bao nhiêu kẻ sĩ vì thiếu kinh nghiệm mà phải bỏ thân tại chốn ngục tù từ bọn này. Hình vẽ là ”đôi gióng mây” láy âm cho Tên ID là GIÓNG. Từ hình ảnh công cụ để gánh gồng, mà nay cũng là hình ảnh ẩn dụ cho công cụ Cùm Gông. Gióng /dóng gồm bốn giây mây…
 
5- Lá bài thứ năm, gian ác bậc năm, tên ID là 8 GIÂY, Nickname là NGŨ ĐỤN, hay NGŨ ĐỤM. (8)
 
Tại sao Tên ID là “8 GIÂY” mà Nickname là NGŨ ĐỤN? Đây là lá bài tiếp theo Tứ Gióng. Do vì (4 gióng) X 2 = 8 giây, hình đồ họa rất rõ. Tài hoa của Người sáng tạo là đã gợi ý để có được một sự liên thông với đời sau. ĐỤM là gì ? ĐỤN hay ĐỤM là tụm năm tụm bảy, lập băng nhóm côn đồ. Đây là cánh tay nối dài của bọn Quan Bờm “thất dọn” mà Bạn Ta sẽ gặp ở đoạn dưới. Hình vẽ hai hình “tứ gióng” được chồng lên nhau khó thấy thế nên, tiền nhân ta đã ghi tên ID là “8 GIÂY”= (4 giây của chiếc gióng x2) như là một sự gợi ý qua hình.
 
6- Lá bài thứ sáu, gian ác bậc sáu, tên ID là 6 HỘT, Nickname là SÁU HỘT.
 
HỘT là gì? Hột là rượu. Khẩu ngữ Quảng Nam “Cha mày mới sáng mà đã có năm ba hột rồi!“. Đó là câu than thở của người vợ hiền khi thấy chồng mình ghiền rượu. Bà đành chịu trận và cất tiếng than thở với các con của mình. 6 HỘT là anh say sưa suốt. Anh rất dễ bị bọn quan bờm chiêu dụ làm tay sai cho chúng. Cấp chút ít tiền cho bọn ngũ đụm để chúng chè chén cùng nhau. Tin tức từ bọn đó mang về
 
7- Lá bài thứ bảy, gian ác bậc bảy, tên ID là SƯA. Nickname là BẢY SƯA.
 
SƯA là gì? Khẩu ngữ Quảng Nam sưa hay thưa cùng nghĩa, ví dụ rào thưa. Sưa là THƯA, là không kín. Anh là kẻ là hời hợt, dễ tin điều quan hứa xạo. Do vì khí cốt của tuyến này là làm biếng, bụng dạ thưa rích, tức là sống bừa bãi. Khẩu ngữ Quảng Nam, ”chồng con chi mà thưa như cái rổ rách, thưa rích” Có nghĩa là Vợ con thì chả lo, làm được bao nhiêu tiền là đổ vào các buổi nhậu cùng với đám ngũ đụm và quan trên, việc nhà khoán trắng cho vợ con.
 
8- Lá bài thứ tám, gian ác bậc tám, tên ID là GIẦY. Nickname là TÁM GIẦY.
 
Giầy hay dầy, dày cùng nghĩa. Có hai ý. Một là, Dầy hiểu như trong từ dày mỏng. Tiền bạc khó khăn với vợ con, nhưng dùng cho băng đảng, lót ổ thăng quan tiến chức thì giỏi. Cũng có khi ngữ cảnh là trong lá bài là đám đầu trâu mặt ngựa này đông nghẹt, đáng sợ cho xã hội mà mình, cánh nữ, đang sống. Hai là, giầy là đạp lên trên. Ví du “giày xéo”. Đám này đạp lên đồng bào mình mà đi, bất chấp sự khổ đau của họ. Đám này quan bờm cần là ra tay tém dẹp, đàn áp đồng bào mình không nương tay. Thế nên tội ác ở mức tám.
 
9- Lá bài thứ chín, gian ác bậc chín, tên ID là GỐI, Nickname là CHÍN GỐI.
 
CHÍN là bậc. Thế nhưng chín cũng có một nghĩa khác như trong từ “chín sống”. GỐI là danh từ chỉ chiếc gối nhưng nghĩa bóng là ước mơ. Anh ở trong tuyến "ĐẦN ÔNG" thế nên là anh làm biếng. Anh làm biếng nhưng ước mơ rằng mình sẽ có ngày được tin dùng, được chỉ huy bọn vô lại, lên chức cao hơn, chức MỎ, đỏ mỏ. Tục ngữ có câu “,Không sợ kẻ tiểu nhân, chỉ sợ kẻ tân tòng”. Thông thường khi kẻ muốn “phấn đấu“ để gia nhập sâu vào hệ thống thường lập công bằng một hành vi gì đó có thể là bỉ ổi bất chấp đạo lý, hại người. Ngoài ra 9 GỐI còn có nghĩa khác. Gối nghĩa bóng là ước mơ. Chín gối có khi là kẻ ước mơ chăn gối với người phụ nữ mà chính họ không ưa y. Chính vì vậy mà y tìm cách tiếp cận bằng dụ dỗ, hăm dọa hay hãm hiếp, không ăn được thì chỉ cho quan anh. Lá bài TỨ TƯỢNG, hay DÁI VOI, trong tuyến người phụ nữ bất hạnh là nỗi khổ thứ tư khi bị bọn quan lại hay đám sai nha này hãm hiếp. Rõ ràng người phụ nữ có chút sắc trong cái xã hội đó thường khó giữ “liễu”. Thất liễu là một đại nạn trong tuyến người phụ nữ bất hạnh.
 
10- Lá bài thứ mười, gian ác bậc mười, tên ID là MỎ, Nickname là ĐỎ MỎ.
 
Anh vô lại, cầm đầu đám đần ông này. Đồ họa vẽ anh có khí cổt là anh “ba gà”, có đế là đám “ngũ đụm”, do có “dấu đỏ” đóng ngay miệng, cộng với sự du côn vốn có, anh là đại họa của xã hội. Xã hội nào cũng vậy, khi thằng chúa trùm du côn vô học mà có “dấu đỏ”, tức giấy chứng nhận chính thức của nhà cầm quyền lận lưng là lúc đồng bào lắm tai ương. Anh này có quyền sinh sát, dân khổ như chó. Đồ họa vẽ anh Đỏ mỏ đi lên từ cốt Ba Gà, và từ các chức cầm đầu đám du côn gọi là ngũ đụm, nay là anh có miệng ăn miệng nói. (9)
 
III-2-4) Xây dựng tuyến thực tế thứ Ba
 
Tuyến "Quan Bờm", bọn có ăn học chữ Hán.
 
Toàn TUYẾN này là những người đàn ông có được mẹ cha cho ăn học. Nhưng học để cốt ra làm quan. Chữ nghĩa là cần câu cơm duy nhất. Ngoài chữ ra, anh không có một nghề tay trái nào khác. Anh chọn đường khoa bảng làm kế sinh nhai, độc đạo. Xưa nay một khi kẻ có ăn học mà đội Hán thì gây ra lắm tai ương cho dân lành. Anh làm giàu nhanh chóng bằng thủ thuật Quan Bờm do vì tiếp cận trí khôn Hán tộc. Con đường làm tay sai cho ngoại bang hay cho các TỬ cướp thời cơ là điều khả dĩ. Con đường tiến thân lên dần dần, thang tội ác tăng dần dần. Đồ họa mô tả anh từ lúc “CHÚ HỌC TRÒ“ đội khăn đóng, sau lột khăn, thay mũ phường tuồng, che QUẠT MO xấu xa do sợ bị đồng bào nhận diện. Từ TRÒ là anh thiếu niên ăn cơm cha mẹ dần dà leo lên thành là kẻ chỉ huy bọn đầu trâu mặt ngựa, bọn làm sai nha đắc lực cho triều đình mục nát do TỬ cầm chịch. Tài năng chính của toàn tuyến là “ thủ đoạn đục khoét. Hốt của người, đạp lên nỗi đau của đồng loại mà làm giàu"
 
baichoi disan3 4
 
Các đường đi nước bước này được phác họa một cách cụ thể để mọi người cùng nhìn ra sự thật. Hãy nhìn rõ chân dung của bọn người đã cai trị mình!.

Các hình vẽ trên lá bài làm thoát ra cái ý “cái dị dạng của người có ăn học ở Đàng Ngoài” một cách cụ thể hơn những gì mà bài ca” Thằng Bờm có cái quạt mo” còn quá kín kẽ (10). Bộ bài ta đã chừa ra và không hề nhắc đến các nhân vật có học đáng kính trọng như là tướng lãnh, nhà nho, thầy thuốc, thầy giáo và những kẻ sĩ, người ở ẩn và người lao động chân chính.
 
baichoi disan3 5
 
TUYET dùng chữ Hán để bày tỏ sự phẫn nộ. ẦM dùng chữ Hán như là loại bùa chú. Và TỬ dùng chữ "hán" như là công cụ để giữ chặt ngai vàng. Trong hình vẽ tiền nhân ta kín đáo ghi chữ dụng [用] một cách lờ mờ. Thế nhưng trong đó cũng có “mầm” của chữ súy [甩]  với cái đuôi cách điệu, cố ý không khi mà dụng có nghĩa là mang ra mà dùng và súy là “ vứt đi “* (11)
 
Nay Chúng ta lần lượt đi vào chi tiết từng tên nhân vật
 
1- lá bài thứ nhất, tội đồ bậc nhất, ID là TRÒ, Nickname là NHẤT TRÒ.
 
Đây là lá bài đầu tiên của tuyến Quan Bờm. Ý nghĩa, Mẹ Cha lo cho anh con trai trong gia đình được ưu tiên đi học, con gái ở tuyến sau. Anh còn rất ngây thơ thế nhưng, "hán" đã tròng lên đầu anh. Lúc này đây cái quạt mo chưa úp lên mặt. Nhận diện, Trò ăn mặc nghiêm túc, đầu đội khăn đóng, nét mặt hồn nhiên, vui. Tại ô thứ hai, chữ nhất [一], được cố tình làm đế cho chữ thập [十] ngã nghiêng bên trên. Mơ hồ là chữ sĩ [士], chao đảo. Điều này đã là điều xác quyết niềm tin, cho dù chú học trò này có học cho đến sói đầu đi đâu chăng nữa thì kiến văn thu thập của anh ta cũng không hơn cái hiểu biết của một anh “nông dân”. Một chữ "hán" khá rõ nét là Điền Kiến. “điền” 田 / 佃 & kiến 見”. Từ mang nghiã miệt thị quá rõ ràng. Người sáng tạo đã lược bỏ bộ nhân đứng trong chữ điền thứ nhất 佃 cốt làm rõ chữ điền thứ hai [田], lấy âm “điền”, có khi hiểu xa là “cục đất“. 
 
Hòn đất mà biết nói năng
Thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn”
(12).
 
Do vì các nhân vật trong toàn tuyến đi sau anh Trò thế nên, các Quan Bờm đều rất DỐT. Do vì kiến văn của một anh có cái đầu là “cục đất”
 
2-Lá bài thứ hai, gian ác bậc hai, ID là ĐẤU, Nickname là NHÌ BÍ.
 
ĐẤU là tên một vì sao hình cái đấu đong, đựng rượu. Thấy đó mà không sao dùng được việc gì. Anh nghĩ nay mình đã được học “ba chữ thánh hiền“ nhưng nếu mình không tham chánh thì việc học sẽ vô ích. Học để làm gì? Học có phải là cái “ cần câu cơm”. Anh “Bí” rị. Mặt anh nay đã có cái cái quạt mo trùm lên. Nhanh quá! Nét lưu manh và hắc ám của một Quan Bờm tương lai đã bắt đầu lộ diện.
 
3-Lá bài thứ ba, gian ác bậc ba, ID là QUĂN, Nickname là TAM QUĂN.
 
QUĂN là xoắn vào. Xoắn là ôm chặt lấy. Trên đầu anh đội Hán ở giai đoạn ba này là nay văn hóa "hán" đang là kim chỉ nam trong cuộc sống của anh. Học chỉ để ra làm quan. Anh có thể là một anh Tập ấm. Con quan thì lại làm quan. Ô thứ tư là cơn trốt. Nhanh lên! Cố mà nối gót theo cha. “Hạnh phúc thay cho dân tộc này khi có con các quan nay được tiếp tục làm quan để phục vụ đất nước!” (sic)
 
4-Lá bài thứ tư, gian ác bậc bốn, ID là HƯƠNG, Nickname là TƯ HƯƠNG, TỨ CẲNG.
 
Anh học trò đến giai đoạn này, nay phải quyết định “ba chân bốn cẳng”/ Tứ Cẳng, Mau lên, lẹ lên. Khẩu ngữ đất Quảng Nam câu có “ba chân bốn cẳng”, có nghĩa là làm lẹ lên, mau mau lên, trễ rồi. Anh phải nỗ lực cho kỳ thi Hương. Hình vẽ ở ô thứ tư là trường thi Hương ngày xưa. Một khi có cái bằng cử nhân lận lưng, làm quan đời đời giàu có, cả giòng họ anh nhờ.
 
5-Lá bài thứ năm, gian ác bậc năm, ID là TRỢT, Nickname là NGŨ TRỢT, còn gọi là “NGỦ TRƯA”. Đôi khi còn gọi “TRÁN TRỢT”

NGỦ TRƯA là ngủ dậy trễ. Khẩu ngữ Quảng Nam là “trưa trật”, "trưa trợt“, "trưa quang" là đã quá trễ rồi. Anh được bổ nhiệm về văn phòng quan anh. Vai trò của anh là Quan sai vặt. Rảnh việc, anh chỉ ăn và ngủ thế nên gọi anh là Quan ăn, Quan ngủ. Anh thường thực hiện vai trò môi giới giữa Quan và dân oan. Có anh, quan anh còn tự biện minh, còn có chỗ để đổ thừa cho thuộc cấp nếu như việc ăn bẩn bị đổ bể. Từ đây, anh quan sát việc làm của quan anh. Được ngồi vào chỗ có ăn. Còn xa. Ngoài ra anh còn có tên Nickname “TRÁN TRỢT”. Trong trường hợp này, từ TRÁN TRỢT mang nghĩa tíêu cực. Từ “trán trợt” dùng để chỉ người đàn ông “thông minh” và lắm thủ đoạn, mưu mô, dân cần đề phòng. Tại ô thứ tư có trời mây, sao v. v. …, chỉ công việc chính của anh là xem thiên văn, bốc quẻ, coi ngày tốt xấu, định giờ xuất hành, ngày khởi việc cho quan anh.
 
6-Lá bài thứ sáu, gian ác bậc sáu, ID là XƠ, Nickname là “LỤC RẾ”, LỤC TRẠNG.
 
Tại sao anh là XƠ? Xơ là chai mặt. Bạn Ta nhìn người xưa vẽ trên đầu anh có cái Rế. Rế ở quê chúng tôi đan bằng tre là cái gá để nồi niêu lên trên. Các dụng cụ nhà bếp đan bằng tre tại quê tôi là rổ rế. Rế là cái đế đỡ nối cơm, nồi cá kho. Sáu là lục. Thế nhưng tại đây số đếm lại trở thành một động từ “Lục”, như trong nghĩa của từ lục soát, lục lọi. Rế và Chạn cùng là dụng cụ trong xó bếp. Anh từ đó có tên là “Lục Chạn”. Do vì âm” ch <=>tr “ nên tên anh biến thành Lục Trạng. Quan Bờm nay với kiến thức “điền kiến“, sức hiểu biết của một anh nông dân, là cái thấy của một cục đất thế nên cho dù anh lận cái cử nhân hay cái tiến sĩ, anh cũng chỉ là kẻ giỏi nói phét, nói trạng là giỏi mà thôi. Anh nay được bố trí gần quan anh, tại ô thứ tư hình vẽ đầu hai lá cờ tại công đường, nơi đây anh nằm trong ban tham mưu cho quan anh Thất Dọn.
 
7-Lá bài thứ bảy, gian ác bậc bảy, tên ID là DỌN*, Nickname là THẤT NHỌN.
 
Tại sao lại là DỌN? Nguyên do là dân vùng Bình Trị Thiên âm “d" biến thành âm "nh”. Họ nói “cái thằng do dỏ“ thay cho “cái thằng nho nhỏ”. Nay anh chính thức lên ngồi tại công đường. Anh là quan xử án. Bạn Ta xem tại Ô thứ tư, có hình hai lá cờ bắt chéo. THẤT NHỌN là viên quan bẻ cong công lý. Quan Bờm này không cho người dân được nói lời minh oan, biện hộ hay phản biện. ”Miệng nhà quan có gang có thép”. Hàm hồ. Quan buộc tội người bằng sự ngụy tạo hay bằng các đòn tra tấn chết người, Quan xóa tội tra tấn nạn nhân đến chết mà đàn em gây ra bằng các biên bản ngụy tạo. Nạn nhân tự treo cổ chết trong phòng giam. Tránh đòn đau, nạn nhân đành phải tự nhận tội, lúc này quan nháy mắt để Quan Bờm tay em là “NGŨ TRỢT“ gợi ý cho thân nhân nạn nhân phải biết cửa sau ở đâu mà lo đút lót, hòng cứu thân nhân mình. Trong ngôn ngữ mắng chửi Dân Quảng Nam có khẩu ngữ là “Đồ con dòn!”. Tiếng chửi này khá nặng. Từ miệt thị nặng hơn kêu quan chức bằng Thằng. Đó là một phản ứng của cha mẹ ngay khi đứa bé tỏ vẻ hỗn hào, cãi lại với kẻ bề trên. Nay, dân lành gọi anh là Quan Dòn, anh là viên quan mất dạy khi ăn nói hỗn hào với đồng bào mình khi anh ngồi xử án hay thi hành lệnh cưỡng chế với dân lành.
 
8-Lá bài thứ tám, gian ác bậc tám, ID là BỒNG, Nickname là BÁT BỒNG.
 
Bồng là ôm vào lòng. Quan Bờm ở cấp thứ tám. Bát Bồng là viên quan tham vơ vét đến tận cái lư hương của người dân oan vô tội. Tại ô thứ tư có vẽ hình cái lư hương. Hễ quan vét đến cái lư để thờ cha mẹ của người dân, là quan biết người dân này không còn gì quý trong nhà để “chung chi“ thêm. Đóng hồ sơ. Kết thúc vụ án.
 
9-Lá bài thứ chín, gian ác bậc chín, ID là THẦY, Nickname là CỬU THẦY hay THẦY CHÙA.
 
Tại sao gọi là Thầy? Một là, Anh là Quan Bờm nay đã về hưu sau khi ở lâu trong ngành. Anh lưu manh đến bậc Thầy (master). Thầy (master) là người đã từng là quan bờm cấp lớn. Anh đã rất rành các trò bỉ ổi, giỏi hạch sách. Nay anh làm mai mối hướng dẫn cách đưa hối lộ cho người cần ăn, cho người nhà nạn nhân. Anh dạy cách nhận hối lộ cho các viên quan mới như Tư Hương, Ngũ (ngủ) Trưa, Ngũ Trợt, Lục Trạng,. Các quan này được anh dẫn dắt thành quan “Thất Nhọn” mà không bị trừng trị. Họ khéo che chở cho nhau. Hai là “Thầy” /Thầy Chùa cũng thuộc vào đám ấy. Nhiều vị quan về hưu nay hay nói chuyện Phật pháp. Trong màu áo cư sĩ, Quan THẦY giao du với Thầy Chùa. Thế nhưng, trong BÀICHÒI, Cửu Thầy chính là nhà sư Thích Đại Sán, hay đám Thầy Chùa người Việt tại THÀNH PHỐ Hội An sầm uất nhất của Đàng Trong vào thời ấy. Đừng ai nghĩ rằng anh ta sám hối. Lần này anh a thần phù dịch kinh sách Phật giáo bậy bạ do Tàu ngụy tạo. Anh thổi luồng gió độc vào Phật giáo Đại Việt nhập thế vốn có từ thời Lý Trần mà anh vốn không mấy am hiểu. Tội ác hủy diệt văn hóa giống nòi để lại di hại lớn gấp nhiều lần so với lúc anh làm Quan Bờm, lúc anh áp bức người.
 
Anh này là đối tượng khiến Nàng TUYẾT phải lên tiếng. Dưới mắt nàng, chính đám “Thầy Chùa" này chứ không ai khác đã “phá nát quốc gia” này. Họ phá gia phong, phong tục tập tính tốt của dân tộc này. Quan Bờm từ bậc tám trở xuống chỉ ăn về của cải của dân, cá nhân lãnh đạọ. Thầy chùa chỉ biết chữ Hán lờ mờ. Anh thường mỉa mai "Nôm na cha mách qué", hay thường chê bai phong tục Việt và cách hành xử của người Việt trong việc thực hiện nghi thức cúng kiến (13). Thầy chùa nay chính là người phá nát quốc gia ta từ cội nguồn.. Đã để lại sự di hại cho nhiều đời sau. Anh nhờ có ăn học chữ Hán, đọc sách Tàu nên anh dễ dàng kết cấu với người Tàu. Tàu vốn gian ác ở bậc Thầy (master) đối với dân tộc này. Chính vì vậy mà tên ID TỬ, chúa Minh xuất hiện (14).
 
10-Lá bài thứ mười, gian ác bậcTỐI CAO, ID là TỬ, Nickname là THÁI TỬ (xin xem hình TỬ ở cuối bài)
 
TỬ là gì? Tử trong ngữ cảnh của bộ bài ta là Thái Tử, tức là kẻ sắp lên cầm quyền khi vua cha chết. Tử cũng còn có nghĩa là người đáng kính, là người có quyền hành thực tế tối cao trong đế chế của họ. Trong bộ bài ta, Tử chính là người điều hành cái “nội các“ của ông gồm có bọn Quan Bờm và bè lũ sai nha. Vào thời điểm đó thì Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu là nhân vật quyền uy to nhất, ông là Chúa, vậy Tử là chính ông. (15)
 
Người Xưa đã phẫn nộ về cách hành xử và Đội Hán thái quá của Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu. Chúa đã ban chỉ dụ: "Nước ta phép tắc dân tình vốn bị khiếm khuyết, nay được lão hòa thượng vì chúng ta mà lấy lễ pháp của Trung Hoa chỉ dạy, nay đem khắc trước phủ để văn võ bá quan theo”. Rõ ràng Người Xưa muốn nhắc cho ông rằng “cách ông hơn 700 năm Lý Thường Kiệt viết “tiệt nhiên phân định tại thiên thư“ NQSH. Gần hơn, chỉ cách ông chừng 300 năm, Nguyễn Trãi tuyên bố trước quốc dân qua Bình Ngô Đại Cáo: “Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Nước non bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác; Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập; Cùng Hán, Đường... ” NTT dịch. Như thế đám quan văn trong triều đình của ông học hành chữ Hán đề làm gì? Học để làm tay sai và vòng tay cúi đầu trước nhà Thanh, trước người Hán sao? Lúc này dưới tay ông có danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh phụ giúp việc binh, nên ông được tiếng. Trách gì nàng TUYẾT, "Bạch Huê", không đứng lên cảnh cáo ông. Và họ đã hài tội đám rước THẦY CHÙA Tàu về và phát triển tại Đàng Trong. Ông không hề hay biết rằng đã có một thứ đạo Bụt nhập thế đời Lý Trần đưa lời thề mặc định hộ quốc, hộ pháp, hộ gia (16).
 
baichoidisan1
 
baichoidisan2
 
IV- Kết luận
 
"GOOD MORNING!" đã tạo ra Bộ Bài Tây, "Nị Xực Phàn?" đã tạo ra bộ Bài Tàu Mã Điếu và Nan đề “Anh khỏe không?”, Anh "ỔN" không?, Are you OK? đã tạo ra bộ Bài Ta. Vào lúc này đây, Người Việt đã có số dân gần 100 triệu. Có đến 4 triệu Cánh Chim Việt xa xứ ngày ngày đậu CÀNH NAM trông về tổ quốc mình lòng rất đỗi ngậm ngùi. Cho dù nay Họ đang định cư đâu đó tại các quốc gia văn minh nhất nhân loại, thế nhưng, bài toán "Are you OK?"  vẫn luôn làm cho lòng họ buồn phiền.
 
Bất ổn từ đâu ra? Một là, hướng tấn công từ bên ngoài, kẻ thù phương Bắc trăm phương ngàn kế. Dân tộc họ trước sau một lòng đều muốn nuốt dân tộc mà họ gọi xách mé là bọn Man, bọn Mán. Trong sách của nhà sư Thích Đại Sán cũng viết như thế. Không nuốt được bằng các cuộc chiến tranh tiêu hao, bằng giải pháp lấy thịt đè người thì họ vẫn còn vô số các thủ đoạn khác học từ tiền nhân của họ. Hai là, Họ tấn công vào ngôn ngữ nguồn, tấn công trên chữ viết của người VIỆT. Chữ Hán đã trói trí thức Việt Nam vào "hán". Họ đang lấn từng tấc đất trong cuộc chiến quyền lực mềm. Ba là, truyên truyền bằng sự rỉ vào tai người đàn bà cơ khổ qua miệng các ông thầy bói. Họ là ông chủ tiệm thuốc có vợ Việt, là các anh ít học hay là bọn quan lại Đội Hán, là ông thầy chùa đồng bóng. Họ cho chữ Nôm là “nôm na cha mách qué”. Tiền nhân ta không vừa, đã mỉa mai bằng thứ chữ Hán trên mỗi lá bài như Bạn Ta đã thấy. Luật Cam Chịu của Nho gia với lời dạy “Thuận trời thì sống, nghịch trời thì chết”, “luật tam tòng” đã làm hèn đi dân tộc này, các luật trên đã giữ người phụ nữ trong nhà. Trong sách Hải Ngoại Ký Sự, Thích Đại Sán có chê sự hồn nhiên và gần gủi lứa đôi trong đời sống hằng ngày của người VIỆT. Sự xuất hiện lá bài THẦY có tên Nickname là THẦY CHÙA và lá bài ÂM ẦM là một minh chứng cho việc tròng Hán một cách lâu dài này. Nay nhìn mỗi lá bài, chúng ta tự hỏi còn những lời dạy khôn dại nào nữa hay không? Lẽ nào chỉ có ngần này!. “Nghĩ đến nhau là đã thấy nhau”. Tiền nhân ta đã cho tên ID. Nickname từ đó mà sinh ra. Từ Nickname, dung tục, nảy nở độ sâu, thế hệ sau lần ra lời dạy khôn dại ngày càng sâu. Ngôn từ mẹ đẻ luôn có sức sống, trong lòng chính dân tộc mình, ngày càng đa dạng hơn, từ đó “sự ngộ ra” cũng cao hơn.
 
Nay xã hội đã đổi thay. Thuộc tính quý của dân tộc đã thay đổi kể từ sau khi Gia Long (17) cầm quyền. Dân lú dần và đất nước này bị nô lệ lần nữa. Có khi vong quốc không chừng ở ngay trước cửa nhà trong nửa đầu thế kỷ này!. Có nhiều yếu tố khác phát sinh làm từ “ỔN“ ngày càng trở nên phức tạp và cần phải được bổ sung thường xuyên. Trước mắt, người góp một tay, vì thế hệ tuổi TEEN VN trong thế kỷ 21 này.
 
Học theo Tiền nhân ta, bước một, là kể tội ác của người cầm đầu TỬ, đội Hán, vọng Hán một cách không khoan nhượng.
 
Bước hai, là nêu ra các bước thực tế làm triệt tiêu 20 nhân vật vốn đã tồn tại lâu nay trong xã hội Việt, khiến cho dân tộc này mãi mãi không sao thoát Hán.
 
Bước ba là triệt hạ thần nhân ngoại bang do Hán tộc bịa ra đang thờ trong các đền chùa lăng miếu Việt Nam (18).
 
Đến chùa Phật Hán là gặp ngay Già Lam Bồ Tát. Là người VIỆT, chúng ta hiểu họ đã gởi Quan Công vào chùa VIỆT, với lời dạy “Thân tại Tào tâm tại Hán“, "Hãy mau mau lập bang hội để khống chế dân bản địa như anh em ta đã làm”. Lưu Quan Trương, từ tay trắng lập nên nhà Hậu Hán. Vô duyên, vô lý và cực gian ác! Lý ra đây là chỗ dành cho Thần nhân VIỆT. Cầm cây nhang, khách khấn trước tượng thánh Đức Thánh Trần Hưng Đạo, người VIỆT có khi còn nghĩ về, lúc thế giới này rên xiết dưới gót giày quân Nguyên thì người Việt lại ba lần đánh tan quân xâm lược, cho dù đất nước này nhỏ hơn nhiều về tài và nhân lực. Giúp nhau nhắc nhớ lời di huấn của Người Xưa. “…Quân giặc cậy vào trường trận, ta cậy ở đoản binh, đem đoản binh chống trường trận là việc thường trong binh pháp…. Khi giặc tràn sang như gió như lửa thì ta có thể chống cự được, thắng được nếu như trên dưới một lòng. Nếu giặc dùng cách chiếm cứ dần như tằm ăn dâu, không vơ vét của dân, không mong đánh được ngay thì mình phải dùng tướng giỏi, tùy cơ mà ứng biến, trên dưới một lòng, thì mới có thể chiến thắng được. Phải khoan sức dân làm kế rễ sâu gốc vững, ấy mới là thượng sách, không có gì hơn được.” THĐ. Việc Ngài lệnh cho con rễ mình là Phạm Ngũ Lão phải diệt cho bằng được ác quỷ Phạm Nhan đội lốt người năm xưa. Y chết rồi mà vẫn đeo bám sát hại người VIỆT. Y bám đáy quần người phụ nữ LẠC VIỆT là điều cần được nhắc nhở luôn miệng.
 
Bạn Ta nay đã theo hết ba bài viết về bộ bài ta của laiquangnam. Nay xin đừng hiểu lầm thêm lần nữa rằng, bộ bài ta lập ra chỉ để dành cho cánh phụ nữ và trẻ em để mẹ con họ hú hí với nhau khi rãnh rỗi. Bộ bài ta do chính tiền nhân sáng tác không hề vay mượn và sao chép của ai. Không phải là bộ bài dùng để đánh bạc.
 
Nó nhắc nhớ nhân vật TUYET cất lời dõng dạc: “Đinh khẩu bạch” [丁口 白]; “Tôi nhân danh người đã trưởng thành, tôi xin thưa cùng... Tử /Thái tử rằng nếu Ngài trị nước bằng cách dựa trên đám Quan Bờm, chữ nghĩa thì dốt nát, kiến văn không hơn cục đất. Học chỉ để cốt ra làm quan mà 'Hốt’ của cải. Học để biết cách cấu kết với bọn côn đồ, vô học, lười biếng, biến chúng thành bọn sai nha để đàn áp chồng con chúng tôi, hãm hiếp chúng tôi. Mặt khác TỬ còn dung dưỡng đám Thầy Chùa truyền bá Phật Hán mọi nơi. Rằng xã hội của ngài hẳn phải bị diệt vong”.
 
Cao ngạo gác ngoài tai, chúa Nguyễn ở Phương Nam đã tan rã sau gần hai trăm năm tồn tại. Thế nhưng được người Tàu phía nam giúp đỡ, cháu con họ “ cướp được nước“, quốc gia này tự mình Hán hóa. Một ô nhục khác đè lên. Một lần nữa, TUYẾT sẽ lại đứng lên. Bài khôn dại ở tầm cao này còn, là người VIỆT phải tự biết xấu hổ. Lời dạy cho người VIỆT nay cũng chính là kinh nghiệm sống của một sắc dân đang cố thoát "hán" mà chưa sao thoát nổi. Nay thế giới đã bắt đầu thức tỉnh trước nạn Đại Hán đang biến tướng ở một dạng thức khác. Chờ xem thế giới đổi thay. Lady First. Are you OK ? OK sẽ là lời tự tin người VIỆT nhé.
 
Thân ái,
Laiquangnam
June 16, 2018
 
V) Sách và link tham khảo
 
** Từ Bàichòi viết liền là thuật ngữ chỉ bộ bài ta trong trò chơi Bài chòi tại Nam Trung bộ. Bài Chòi viết rời là một dạng kịch nghệ như bạn thấy trên Youtube. Sau hai bài đó, bài thứ ba này cho bạn ta thấy phong cách sáng tạo của tiền nhân ra sao, từ đó mới đi đến kết luận rằng các bộ bài Tàu trừ bộ bài Mã Điếu thời Minh, các bộ bài mà chúng tôi đã nêu trong bài thứ nhất đều hoàn toàn sao chép của người VIỆT chúng ta. Xin Bạn ta đọc hai phần này trước nếu có thể để hiểu thêm được sự Tài hoa của Tiền nhân ta:
 
BàiChòi
1 @1-
http://www. art2all. net/tho/laiquangnam/baichoi/baichoi_disannhanloai/
 
Bài chòi, Bài thứ nhất, Làm quen với bộ bàichòi, BàiChòi Thuận Quảng của tiền nhân ta. Phần này nhằm giới thiệu cho Bạn Ta những gì mà lớp trước và hiện nay hiểu biết về Bài chòi. Hiện tượng nay có quá nhiều bộ bài Tàu giông giống của ta. Do nay, Quyền lực mềm là sức mạnh mọi quốc gia, điều này sẽ dẫn đến sự phủ nhận sự sáng tạo của tiền nhân chúng ta nếu như chúng ta ngày nay chậm tay. Bạn Ta đã kinh ngạc khi thấy bộ bài do Bình Định vẽ lại tại link này ?
2 @2-
http://www. art2all. net/tho/laiquangnam/baichoi/baichoi_disannhanloai/
 
Bài hai, BàiChòi Thuận Quảng. Thủ pháp Thiết kế một cỗ bài. Bộ BÀI TÂY, Bộ Bài TÀU, Bộ BÀI TA. Bài thứ hai Bạn ta làm quen với cách sáng tạo một cỗ bài ăn tiền. Lần này nhằm giới thiệu cho Bạn Ta những gì mà lớp trước và hiện nay quen lối biên khảo chỉ biết quy chiếu Hán tộc làm cột trụ chân lý. Họ thiếu hiểu biết về cách thiết kế một bộ bài trên thế giới này từ Tây sang Tàu. Thói quen quy chiếu về những gì mà Tàu đã có mà không biết xuất phát điểm cũng như thời gian xuất hiện như thể các bộ bài Tàu Kon P’ai và biến tướng của nó trong cộng đồng hoa kiều ở các nước ĐNA chả hạn; rồi từ đó cho rằng bộ bài ta cũng có kết cấu Văn Vạn Sách và ba lá Bài Yêu như họ. Đó là sự sai trái mà bấy lâu nay không ai lên tiếng phủ nhận. Và họ đã sai lầm khi lấy sản phẩm của người sao chép ( Tàu) làm gốc rồi so sánh ngược với sản phẩm gốc của người sáng tạo (VIỆT).
 
3) Thích Đại Sán, Hải Ngoại Ký Sự, NXB KHXH 2015
 
Xã hội Đàng Trong thời Chúa Nguyễn Phúc Chu đã được nhà sư Thích Đại Sán mô tả khá kỹ trong tác phẩm trên của ông. Đây là nguồn sử liệu quý giá để tôi vững tin những nhân vật mà bộ bài ta mô tả là có thật. Những nhếch nhác, lẫn cái xấu xa của nhà cầm quyền đương thời về việc các quan bợ đỡ xin nhà sư Thích Đại Sán nói giùm với chúa Minh hay đoạn nhà sư Thích Đại Sán gỡ tội cho đồng hương của ông phạm pháp. Nếu là kẻ cướp ngôi, có chữ ĐIỆN [电] giúp ta hiểu tên TỬ là ai. Nếu TỬ ngu muội thì chữ SÚY [甩] giúp ta hiểu ta phải làm gì với ông. Đó là lý do mà chữ Hán trong lá bài mờ ảo, không rõ ràng?
 
Chúa Minh ban chỉ dụ: "Nước ta phép tắc dân tình vốn bị khiếm khuyết, nay được lão hòa thượng vì chúng ta mà lấy lễ pháp của Trung Hoa chỉ dạy, nay đem khắc trước phủ để văn võ bá quan và người dân biết (...)". Nhớ xưa, cách ông hơn 700 năm, Lý Thường Kiệt viết “tiệt nhiên phân định tại thiên thư“. Gần hơn, cách ông gần 300 năm, Nguyễn Trãi tuyên bố trước quốc dân qua Bình Ngô Đại Cáo“ “Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Nước non bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác; Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập; Cùng Hán, Đường... ” NTT dịch.
 
Như thế đám quan văn trong triều đình của ông học hành chữ Hán đề làm gì ? Học để làm tay sai và vòng tay cúi đầu sao? Sở dĩ ông mở cõi là nhờ dưới tay ông có danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh phụ giúp việc binh, trách gì nàng TUYẾT, "Bạch Huê" đã đứng lên cảnh cáo ông. Và đã nêu THẦY CHÙA tội ác đứng vào bậc gần tối cao, bậc chín. Chúa Minh, ông chính là nhân vật TỬ trong bộ bài. Tại sao? Tại u mê. Chính vì biết chữ Hán láp nháp, đọc kinh Phật qua lỗ mũi của người Tàu với mớ lý luận tối như hủ nút. Ông lạc vào mê cung, lú lẫn cuối cùng nhờ Thầy Tàu qua giảng thêm cho, sđd (3). Qua tác phẩm của ông, chúng ta thấy hiện tượng bắt lính tàn bạo, hiện tượng tham ô, hiện tượng quỵ lụy ông này. Nhà sư Thích Đại Sán chơi bùa phép của cánh phù thủy, cầu âm binh cũng như ông miệt thị dân tộc mình khi chúa Minh tặng cho ông các phẩm vật chạm trổ tinh xảo. Ông nhận quà nhưng ông chê là phong cách “mán’, tức là dân tộc của chúa Minh. Chúa Minh vẫn không hề lấy thế làm phiền còn ghi lời tán tụng về bộ sách của nhà sư Thích Đại Sán. sđd (3)
 
4) Tổ tiên của ông là Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần lúc mới 17 tuổi đã đánh tan hạm đội HÀ LAN tối tân hơn, mạnh hơn tại cửa Thuận An và khu vực Cù lao Chàm, Hội An. Vượng khí dân tộc lên, xin đọc lại lịch sử trận chiến thắng oanh liệt này:
http://www. art2all. net/tho/laiquangnam/baichoi/lqn_baichoi_baitoi_phan2_28may15. htm
 
4*(5) chữ TUYẾT có nhiều nghĩa, tùy theo ngữ cảnh khi nói và vị trí của nó trong câu. Tuyết, lấy âm. Chỉ có chữ quốc ngữ alphabet mới là tên ID. Chữ Hán [雪] không biểu thị cho tên ID. Nó chỉ giữ vai trò che dấu “ý đồ“ mà người xưa muốn gởi đến cho thế hệ mai sau mà thôi. Tùy theo ngữ cảnh, do vì nó là từ ĐƠN nên có thể có các nghĩa như sau:
 
4*. 1- Tuyết là danh từ chỉ trạng thái vật lý của nước. Mưa gặp lạnh rơi xuống từng hạt như thủy tinh trắng.
 
4*. 2- Gọi thay cho một số sự vật màu trắng; mang hàm nghĩa là trắng, độ trắng của Tuyết khác với từ Bạch, ví dụ “da nàng như tuyết”.
 
4*. 3- là tính từ mang nghĩa là “Trong sạch, cao khiết”, tuyết cách “Sạch như nước, trắng như ngà, trong như Tuyết”,  Nguyễn Công Trứ:
 
4*. 4- là Động từ: Rửa sạch, biểu minh, lau, chùi. Ý này không thấy người VIỆT dùng.
(theo Triều Chửu, Nguyễn Quốc Hùng, Trần văn Chánh).
 
5) BÁNH HAI, có nơi gọi là HAI LÁT, TRƯỜNG HAI,  có nơi gọi là NHÌ BÁNH, có lúc gọi là NHÌ XE;
 
và BÀNH BA, còn gọi là TRƯỜNG BA. Nhiều người Huế gọi là "TRẠNG BA," là ông Trạng đỗ ba khoa. Hệ thống nào? Sự mạch lạc ra sao? Không thấy ai giải thích.
 
6) Tên ID là XE. Có tên Nickname là Con CHÍN XE. Tôi không hiểu vì lý do nào mà người Bình Định gọi là CHÍN CU. Ngày nay nhất loạt các anh hiệu đều hát “con Cu nó ăn đậu ăn mè, chớ ăn chi của chị mà chị đè con Q tôi”. Có lẽ do vì dung tục gây cười cho nên được chuộng chăng? Trong trường hợp này thì XE là se sắt như chúng tôi đã giải mã. Vui thi có vui, nhưng dưới mắt chúng tôi đây là một sự lạc điệu. Ngày nay, quyền lực mềm là tài sản quốc gia, là sức mạnh văn hóa quốc gia, người khác chủng tộc Việt sẽ đánh giá văn hóa Việt qua quyền lực mềm này. Việc dành giật lại Văn hóa cho dân tộc mình phải được thấm vào máu của từng người Việt có được chút may mắn là mẹ cha cho ăn học. Việc gọi đúng tên ID và Nickname là điều tối cần thiết đối với các vị có thẩm quyền nhất là vào lúc này.
 
7) Ba hoa trước đây cho rầng do từ du nhập từ Pháp ngữ là “bavard” là kẻ lắm mồm. Thế nhưng từ khi “BA” được hiểu trong ngữ cảnh tiêu cực thì ba có nghĩa là sự xấu. Ba Hoa là anh người Hoa xấu xa, thuộc tính của người Tàu hay nói ồn ào tại chỗ đông người. Từ đấy từ baHoa trở thành tính từ chỉ người ăn nói khoác lác, nói đại xạo, khoe khoang.
 
8) Nickname là NGŨ ĐỤM, NGŨ ĐỤN. Do các anh hiệu trông mặt đặt tên nên gọi đại là “SÁU BƯỜNG” ( Bình Định), hay có nơi còn gọi là con BẰNG ĐẦU (một vài vùng tại đất Quảng Nam). Các tên có tên Nickname này không có giá trị gì về mức độ mô tả mức thang tội ác tăng dần. Tuy rằng bường là bằng thế nhưng, ta thấy ngay tên Nickname là SÁU BƯỜNG không hợp cách bởi phạm luật, “trong cùng một tuyến không bao giờ có hai lá bài cùng một bậc bởi trong tuyến đã có “6 HỘT”.
 
9) ĐỎ MỎ. Bạn ta xem hình. Chính nơi đây là một vết về sự Tàu sao chép của ta. Người Tàu không sao chối cãi được. Họ đã đóng đến hai con dấu đỏ trên thân lá bài, mà không đóng ngay trên miệng Bộ bài Kon P'ai, Đồng Quan Bài. Xem link sđd(1)
 
10) Bài ca Di sản “Thằng Bờm có cái quạt mo“ cho thấy rằng lối học của Bờm chỉ cốt ra làm quan. Tại câu kết chỉ rõ, “Phú Ông xin đổi “nắm xôi”, Bờm cười“. Xôi là từ ẩn dụ chỉ miếng đỉnh chung. Bạn ta sẽ đọc bài ca di sản cấp nhân loại, do người Đàng Ngoài dựng kịch bản. Trong các kỳ tới mời bạn đọc bài do laiquangnam giải mã.
 
11) Trong toàn bộ bài ta cũng có ba lá bài khác có chữ "hán" thế nhưng tiền nhân ta cho thấy mỗi người dùng thứ chữ này ở một tầm cao hơn. Như thế việc học chữ Hán đã được phân lớp.
 
12) Tôi dè chừng đây là sự mỉa mai về vốn chữ Hán của các anh Quan Bờm này. Người Quảng Nam đã có hát câu hô thai theo câu ca dao này.
 
nói lối
 
“…là con gì nó ra đây?”
“Văn chương dựng không đầy lá mít
Võ thì đá không bể nổi mảnh sành
Nghe vua treo bảng cũng xàng xành ra thi
Bảng đề không biết chữ chi,
Mài nghiên, mút bút có khi hết ngày.”
 
Đây là đoạn anh Hiệu hát về con TRÒ, tuy nhiên, nếu là hô thai, tức hô đố nhau thay vì mô tả thì lại khác. Tại câu thứ ba có chữ” đi thi”, vội đoán là “TƯ HƯƠNG”, tức “TỨ CẲNG (Nickname). Thế nhưng tại câu thứ tư và năm thì Anh thí sinh này cắn bút “bí rị”, nên anh chính là “NHÌ BÍ“ (Nickname), tức là lá bài “ĐẤU” (tên ID).
 
13) sđd(3). Thích Đại Sán ngay sau khi nhận phẩm vật quý của Chúa Nguyễn Phúc Chu tặng, ông chê là sản phẩm của người Man thô kệch không bằng Trung Nguyên. Việt ông gọi là Man, man là bọn mọi rợ và Nhà Chúa theo lời ông, lệnh cho quan lại thúc dân Đàng Trong theo đúng nghi thức cúng kiến và lễ nghi của Tàu.
 
14)  Nhà sư Thích Đại Sán qua ta làm “thầy dùi” cho Chúa Nguyễn Phúc Chu, khuyên chúa Minh nên thần phục Thanh triều chống lại Đàng Ngoài và tổ chức xã hội theo Tàu, nên lấy Khổng - Đạo làm nền văn hóa tâm linh bên cạnh Phật giáo đã được Hán hóa. Và việc này đã để lại di hại về sau rất rõ ràng. Sách đã dẫn sđd(3).
 
15) Thế nhưng với tội ác Đội Hán như ta đã thấy ở đoạn trên, thì người xưa đã ghi lại hình chữ Tàu rất khó đoán. Nếu Bạn ta để ý thì sẽ thấy trong đầu anh ta cũng đã ẩn hiện chữ Tàu. Ẩn hiện một chữ SÚY, chữ ĐIỆN. Tùy theo bối cảnh lịch sử, có thể nghĩ là chữ Súy, là chữ Điện, là chữ Dụng…. Súy [甩] là loại bỏ đi, hiểu xa hơn là “lôi đầu nó xuống, phế nó đi”. Chữ Điện [电] là kẻ cướp thời cơ, nhanh như chớp. Chữ Dụng [用] là dùng, như trong từ ứng dụng, kẻ thực tế sai khiến, hiểu xa hơn là kẻ sai khiến kẻ khác. Rõ ràng chỗ này tôi “nhìn khác bạn“ hay quá xa. Các bạn có khi nhìn tốt hơn. Theo thời gian, có thêm data, chúng tôi sẽ có lời giải đáp cụ thể. Ngu thì chịu chớ. Mắc cỡ nỗi gì! Thế nhé! vì hành trang tuổi TEEN Việt Nam.
 
16) Loạt bài Không Lộ thiền sư
http://www. art2all. net/tho/laiquangnam/lqn_ngonhoai_phan4_thuatngunguoixua. htm

Và http://www. art2all. net/tho/laiquangnam/lqn_huuhuongnhulai. htm
 
17) Các tác hại của ông đã lan đến cháu ông từ Nguyễn Phúc Khoát đến Minh Mạng, và đến đời Tự Đức thì đất nước này đã rơi vào vòng hèn hạ.
 
Thu Tứ, Công tội nhà Nguyễnhttp://tuanbaovannghetphcm. vn/cong-toi-nha-nguyen/
Bài của anh Thu Tứ nhắc tội ác khởi đi từ thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát. Thế nhưng Nguyễn phúc Khoát chỉ mới là cháu chắt của Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu. Chúa Minh tức là nhân vật TỬ trong bộ bài ta này. Chính Chúa Minh đã đặt nền tảng rước Hán, quy Hán và Đội Hán nặng nề như ta đã thấy bộ bài ta mô tả và đã được nhà sư Thích Đại Sán mô tả kỹ sđd(3).
 
18) Người Tàu đã ma lanh đưa ngay hình tượng Quan Vũ, vì được một nhà sư thời Tùy nhận làm đệ tử, ông đã giác ngộ và đã trở thành Già Lam Bồ tát. Ông trở thành ông ác, bảo vệ đạo pháp của Phật Hán.
 
Thực chất là khi người Tàu lạy ông Quan Vũ hay ông Già Lam Bồ Tát có nghĩa là vừa lạy vừa nhớ câu của Tiền nhân họ (người Tàu). Còn chúng ta thì mắc mớ gì mà “Thân tại Tào, tâm tại Hán?". Họ nhắc nhau, rằng có đi đâu, có ở đâu cũng phục vụ nước Đại Hán vĩ đại của họ. Và rằng đủ ba người thì lập “ổ tam tam“, "lập bang hội để hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau". Chính hình tượng Quan Công này đã lấn áp hình ảnh Đức Thánh Trần Hưng Đạo trong vấn đề cầu tự, xin phép người cõi âm giúp đỡ. Tại Đền Ngọc Sơn giữa Hồ Hoàn Kiếm, Hanoi, tượng Quan công để chánh điện hương khói uy nghi, trong khi Ngài Trần Hưng Đạo lại ở hậu điện tối om. Có phải là điều ngu không? Người thiết kế không ai khác hơn là Nguyễn Văn Siêu. Câu Văn như Siêu Quát vô tiền Hán, chính là ông Siêu này.
 
Không biết nay đã thấy Tiền nhân mình ngày xưa vì “dật dờ“ mà nay chịu khắc phục lỗi không hay lại “Đội Hán muôn năm?” Hay là phải đợi ai đó viết bài hạch cái nhỏ nhen bỉ ổi của Quan Vũ theo chính sử để "Ai đó" thấy rằng tư cách của Quan Công kém xa Đức Ngài Trần Hưng Đạo của ta?
 
baichoi disan3 8
 
 

Tìm các bài BIÊN KHẢO khác theo vần ABC . . .

Tống Phước Hiệp

Địa chỉ E-Mail để liên lạc với chúng tôi: trangnhatongphuochiep.com@gmail.com