(Ảnh: phuocchau.org)
Trong các tác phẩm viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Du, ngoài Truyện Kiều lớn lao, đồ sộ, còn có bài Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh.
Bài văn tế này còn gọi bằng các tên khác là Văn Chiêu Hồn hay Văn Tế Chiêu Hồn. Đây là bài thơ gồm một trăm tám mươi tư câu, được sáng tác vào khoảng đầu thế kỷ mười chín.
Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú, có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên Đông Dương Tuần Báo (1939) thì Nguyễn Du viết bài văn tế này, sau một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát, để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Tuy nhiên, giáo sư Hoàng Xuân Hãn lại cho rằng, có lẽ Nguyễn Du viết tác phẩm này trước cả Truyện Kiều, tức khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812).
Bài văn tế này còn gọi bằng các tên khác là Văn Chiêu Hồn hay Văn Tế Chiêu Hồn. Đây là bài thơ gồm một trăm tám mươi tư câu, được sáng tác vào khoảng đầu thế kỷ mười chín.
Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú, có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên Đông Dương Tuần Báo (1939) thì Nguyễn Du viết bài văn tế này, sau một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát, để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Tuy nhiên, giáo sư Hoàng Xuân Hãn lại cho rằng, có lẽ Nguyễn Du viết tác phẩm này trước cả Truyện Kiều, tức khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812).
Sách Từ Điển Văn Học bộ mới cho biết người đầu tiên phát hiện bài văn tại chùa Diệc ở thành phố Vinh là giáo sư Lê Thước. Nhưng cổ nhất là bản khắc ván (1895) của nhà sư Chính Đại (nên được gọi là bản Chính Đại), được tàng trữ ở chùa Hưng Phúc, xã Xuân Lôi, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh. Từ hai bản này, Hoàng Xuân Hãn đã khảo chứng, hiệu đính kỹ lưỡng và đã đưa ra một văn bản khác có độ tin cậy cao hơn.
Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh là một bài văn khấn tế, mang màu sắc Phật Giáo, dành cho các hồn ma đang trong cảnh đọa đày, oan khuất và cô đơn.
Tuy là văn tế nhưng Nguyễn Du không viết theo thể biền ngẫu thường thấy, mà ông lại viết theo theo thể thơ song thất lục bát, thêm vào đó, chữ ông dùng đơn giản, không quá cầu kỳ, không nhiều điển tích nên lời thơ trở nên gần gũi, dễ đọc, dễ cảm, dễ hiểu.
******
Tựa là thập loại, nhưng trong bài văn tế này, Nguyễn Du đưa vào cả thảy mười ba loại chúng sinh.
Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh
Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh là một bài văn khấn tế, mang màu sắc Phật Giáo, dành cho các hồn ma đang trong cảnh đọa đày, oan khuất và cô đơn.
Tuy là văn tế nhưng Nguyễn Du không viết theo thể biền ngẫu thường thấy, mà ông lại viết theo theo thể thơ song thất lục bát, thêm vào đó, chữ ông dùng đơn giản, không quá cầu kỳ, không nhiều điển tích nên lời thơ trở nên gần gũi, dễ đọc, dễ cảm, dễ hiểu.
******
Tựa là thập loại, nhưng trong bài văn tế này, Nguyễn Du đưa vào cả thảy mười ba loại chúng sinh.
Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh
I/
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não người thay buổi chiều thu
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng.
**
Phần mở đầu có năm khổ, hai mươi câu. Tháng bảy âm lịch, theo quan niệm của Phật giáo, là tháng mở cửa âm ty, tháng xá tội vong nhân, tháng mưa ngâu sướt mướt, tháng toát hơi may lạnh buốt xương khô. “Hơi may” ở đây là heo may, gió heo may lạnh buốt xương khô. “Não” là não nùng, não nề thay buổi chiều thu, ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng.
****
Đường bạch dương bóng chiều man mác
Ngọn đường lê lác đác sương sa
Lòng nào là chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
**
Khung cảnh về chiều của những ngày tháng bảy là cảnh của lác đác ngọn sương sa, cảnh của bóng chiều man mác, khiến lòng người cũng trở nên buồn bã vô cùng. Người mà còn thế, huống hồ chi ma. Dương sao thì âm vậy mà.
****
Trong trường dạ tối tăm trời đất
Có khôn thiêng phảng phất u minh
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
**
“Trường dạ” nghĩa là đêm dài. Trong đêm dài đến tối tăm trời đất ấy, chắc hẳn phải có sự khôn thiêng của những hồn phách cô đơn đang còn lênh đênh, cho đến nay vẫn còn bờ bụi, chưa tìm được lối cho hồn về dựa dẫm, nghe kinh.
****
Hương khói đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen
Còn chi ai quý ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu.
**
Hồn không ai hương khói là hồn không nơi nương tựa. Hồn như vậy, sẽ mồ côi mà lần lữa giữa đêm đen, không còn phân biệt là quý hay là hèn, cũng không còn phân biệt là ngu hay là hiền nữa.
****
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tịnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ hồn về Tây phương.
**
Thế nên, vào đầu thu, tháng Bảy này sẽ lập đàn giải thoát cho vong hồn ra khỏi những khổ đau. Lấy nước trong tịnh bình của Thiên Thủ Quan Âm mà rưới hạt dương chi, muôn muôn cậy nhờ vào lòng đức Phật từ bi, mà giải oan cứu khổ, mà dìu hồn về Tây phương cực lạc.
******
Phần hai của bài văn tế gồm hai mươi bảy khổ, tổng cộng một trăm lẻ tám câu, Nguyễn Du lần lượt liệt kê mười ba loại vong hồn.
II/
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những lăm cướp gánh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu
Lớn sang giàu nặng oán thù
Máu tươi lai láng xương khô rã rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc
Quỷ không đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.
**
Loại thứ nhứt là những nhà hoạt động chánh trị, hoàng vương đế bá một thời. Với tánh cách kiêu hãnh, đầu đội trời chân đạp đất, họ tính đường gánh vác chuyện non sông. Vướng vào buổi tranh hùng, vì không thuận lòng trời, không hợp lòng dân, họ đành đi vào bước đường cùng tận.
Chỉ trong thoáng chốc mưa sa ngói lở, họ thành ra kẻ thất phu. Khi sống càng chức tước, càng sang cả bao nhiêu, thì khi chết, lòng nặng oán thù càng chồng chất bấy nhiêu. Máu đổ càng nhiều thì xương khô càng vút.
Xưa, với kẻ thù, vua thường tru di tam tộc. Nên, số lượng này lên đến hàng trăm, hàng ngàn vong hồn nheo nhóc, do vong không có người nối dòng, không có người khói hương, thờ tự. Cạnh đó, còn có rất nhiều quỷ không đầu, đi tìm thân mình than khóc suốt đêm. Mới hay, cơ mưu là ở nhân nhưng thành bại lại ở thiên. Số cô hồn đông đúc như thế, Nguyễn Du ngậm ngùi, biết bao giờ mới cho tan niềm oan khuất.
****
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế hằng nga
Một phen thay đổi sơn hà
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu.
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo một đêm một rầu.
**
Loại thứ hai là tầng lớp vương phi, giàu sang, phú quý, các bà hoàng, các cung tần mỹ nữ từng một thời sống trong màn lan trướng huệ, từng được tung hô là người đẹp nơi cung quế hằng nga, từng nghiêng nước nghiêng thành, từng khuynh đảo giang sơn, đứng trước sinh tử, thân tựa chiếc lá, giờ đây, vong hồn chẳng biết phải về đâu.
Từng ngồi cạnh ngôi cao chín bệ, nhưng khi đã trâm gãy bình rơi, thì cũng như nước chảy qua cầu, mới hôm qua còn đông đúc vui cười, mà nay đã chẳng người nhặt xương khi nhắm mắt.
Không hương không khói đã đành một lẽ rồi, bây giờ thành ma, thì cũng vẫn là ma nữ nhi, chân mềm tay yếu, không người hầu hạ, ngẩn ngơ trước suối trước rừng, hái trái sim ăn thôi mà cũng còn mệt lử. Hồn vì thế, mỗi năm vất vơ là mỗi năm thêm héo mòn héo mỏi.
****
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng
Ngọn bút son thác sống ở tay
Kinh luân găm một túi đầy
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang
Cô hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.
**
Loại thứ ba là những quan văn, mũ cao áo rộng, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, vung ngọn bút lên là có thể cho ai sống mới được sống, hạ ngọn bút xuống là có thể muốn ai chết thời phải chết, như Quản Trọng tướng nước Tề, như Gia Cát Lượng tướng của vua Hán Thục, như Y Doãn tướng nhà Thương, như Chu Công tướng nhà Chu vậy.
Càng thịnh thế, càng thỏa mãn bao nhiêu thì oán thù lại càng lắm bấy nhiêu. Khi chết đi, số vong oán hờn ấy không biết bao nhiêu mà kể. Xưa trên dương thế, vàng muôn bạc trượng, giờ chết ra ma, vàng bạc ấy cũng chẳng thể mang theo mà đổi lấy việc xóa hận thù.
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước / Biết lấy ai bát nước nén nhang / Cô hồn thất thểu dọc ngang / Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.
****
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi sa trường thịt nát máu rơi
Bơ vơ góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao.
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu
Nào đâu điếu tế nào đâu chưng thường.
**
Loại thứ tư là những quan võ, những kẻ quen bài binh bố trận, liều mình cướp ấn nguyên nhung. Được ăn cả, ngã về không. Một là chết, hai là vinh quang tận hưởng đời đời con cháu.
Ra trận, nào ai tính được thế cờ thắng thua. Giữa sa trường vùi thây là chuyện trong chớp mắt và thường tình. Thịt xương vung vãi, chất chồng. Thịt góc bể, máu chân trời, nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao.
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét / Khí âm huyền mờ mịt trước sau / Ngàn mây nội cỏ rầu rầu / Nào đâu điếu tế nào đâu chưng thường.
Chết còn không nhận ra đâu là xương cốt thì làm sao hồn có thể trọn vẹn mà quay về dương gian để nhận những phẩm vật cúng tế, những lời ai điếu thương tưởng của bốn mùa xuân hạ thu đông.
****
Cũng có kẻ tính đường trí phú
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai.
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù du dẫu có như không
Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu.
**
Loại thứ năm là thương nhân, người buôn bán. Một đời toan tính làm giàu. Cần kiệm, bóp mồm bóp miệng, nhịn ăn nhịn mặc, chỉ biết có tiền, bỏ bạn bỏ bè, làm ngơ bà con họ tộc, giấu giấu diếm diếm tài sản.
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ / Của phù du dẫu có như không / Sống thời tiền chảy bạc ròng / Thác không đem được một đồng nào đi.
Đến lúc chết, chẳng ai nhỏ một giọt nước mắt xót thương. Nếu có ai khóc, thì đấy là khóc mướn, vì tiền mà giả bộ khóc thôi. Khi chết, những vong ấy rất buồn, vì chẳng ai đến viếng mình, và cũng chẳng ai đi đưa mình cả.
****
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
**
Loại thứ sáu là trí thức, những người cố gắng học hành, lập chí, mong đỗ đạt làm quan. Họ từ làng quê, bỏ ruộng bỏ vườn, bỏ vợ con, bỏ cha mẹ, để vào kinh đô tìm thầy, ứng thí.
Đó là một hành trình dài, vài năm chớ không phải ít. Ăn bờ ngủ bụi, chịu nắng chịu mưa là lẽ thường tình. Lúc ngã bệnh, vợ con, anh em, cha mẹ ở xa, không ai chăm sóc. Cứ thế bên vệ đường, dưới gốc cây, bên mái lá hàng nước dừng chân, đành bỏ mạng. Bá tánh họ bó chiếu, khâm liệm, chôn giùm. Người dưng, thành thử, hóa thành anh em họ mạc.
Những vong hồn tha phương ấy, không thể tìm được đường về nhà. Họ bị chôn ở một nơi xa lạ, chung quanh chẳng một kẻ quen. Họ quanh quẩn trong gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
****
Cũng có kẻ vào sông ra bể
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.
**
Loại thứ bảy là ngư phủ, người làm nghề biển, họ vào bể ra sông. Quanh năm suốt tháng, họ cậy nhờ biển đông mà kiếm con cá, con tôm độ nhật. Gặp buổi rủi xui, tận mạng, giông tố, gió mưa kéo đến giữa dòng, thì thân trở thành mồi cho cá rỉa giữa đại dương.
****
Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao.
**
Loại thứ tám là nông dân. Trồng lúa xong thì đóng thóc, đóng gạo mang đi bán. Chợ gần không có, thời phải chợ xa. Đòn gánh tre trên vai, họ rong ruổi tháng ngày. Những hiểm nguy trên đường, nào ai biết trước, nào ai tránh được. Có khi bị cướp bóc. Lại có khi do lao lực quá mà sinh ra bệnh tật, đột ngột bỏ mạng trên đường. Hồn lạc loài, không biết phải về đâu.
****
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan
Nước khe cơm ống gian nan
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
**
Loại thứ chín là binh lính, chiến sĩ. Thời bình thì phải phụng lệnh, làm việc theo sai bảo của quan nha. Uống thì nước khe. Cơm thì nhóm lửa giữa đường, dùng ống tre mà nấu chín. Dãi dầu mưa nắng sớm hôm, cực khổ, lầm than, không biết bao nhiêu mà kể.
Thời chiến tranh, mạng người như cỏ rác. Hòn đạn mũi tên nào có mắt, người chết vô số kể. Hồn đông như rạ. Hồn thành những ngọn ma trơi, đêm đêm khóc than. Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
****
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Đâu chồng con tá biết là cậy ai.
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu.
**
Loại thứ mười là kỹ nữ, những người bán phấn buôn hương. Họ là những người có số phận nhỡ nhàng, phần nhiều vì hoàn cảnh mà liều thân, mang tuổi xanh để buôn nguyệt bán hoa, ngẩn ngơ khi trở về già, chồng con không có biết nhờ cậy ai.
Sống thì sống trong nhục nhằn, phiền não. Lúc chết rồi, lại trông nhờ hớp cháo lá đa. Đau đớn thay phận đàn bà. Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu.
****
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.
**
Loại thứ mười một là hành khất, kẻ ăn mày, ăn xin của bá tánh mà sống qua ngày. Họ nằm chân cầu, họ gối trên đất. Thương thay cũng một kiếp người. Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.
****
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi.
**
Loại thứ mười hai là tù nhân. Tù nhân, rất nhiều người bị mắc oan mà phải chịu tù đến hết đời. Khi chết, may mắn lắm thì được manh chiếu rách. Nắm xương tàn chôn ở rìa thành. Biết đến kiếp nào mới cởi được nỗi oan tình lúc sống.
****
Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế vào ra
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
**
Loại thứ mười ba là tiểu nhi, các bé sơ sinh. Vì lỗi giờ sinh, nên các em phải sớm lìa cha lìa mẹ. Không được ru dỗ, ẵm bồng, bé chỉ kịp u ơ khóc. Thương cảm biết là bao.
******
Phần thứ ba của bài văn tế, gồm bảy khổ, hai mươi tám câu này, Nguyễn Du đã mô tả sự đau khổ, thê lương, của các vong hồn, vì lẽ này hay lẽ kia, hồn không nơi nương tựa, phải chịu vất vưởng, bơ vơ.
Xin nguyện họ, sống khôn thác thiêng, mau lần tìm đến nơi có Phật mà nghe kinh, đặng nhờ siêu thoát!
III/
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái
Người thì sa nanh sói ngà voi
Có người hay đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ.
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là bụi cỏ bóng cây
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
Hoặc là nương thần từ Phật tự
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre.
Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết
Gan héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
******
Phần thứ tư, gồm bảy khổ, hai mươi tám câu, Nguyễn Du dâng lời thỉnh cầu, xin phép Phật nhiệm màu, giúp cho các vong hồn được giải thoát. Cuối cùng là lời mời các vong hồn tới nhận lễ cúng của dương gian.
IV/
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hoà tứ hải quần chu
Não phiền rũ sạch oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh
Có chữ rằng vạn cảnh giai không
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có chi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu
Phép thiêng biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
******
Kết
Trong mười ba loại chúng sinh, không thấy Nguyễn Du đề cập đến người đã xuất gia, tức giới Tăng Ni. Có lẽ do ông nghĩ rằng, giới ấy, khi viên tịch, sẽ thành Phật đạo, nên bỏ qua chăng?
Không chỉ là một bài văn chiêu hồn đơn thuần, bài văn tế thập loại chúng sinh gần hai trăm câu này còn là lời cảnh tỉnh của Nguyễn Du với con người sống trong cõi tạm bợ.
Có thấy chăng những ngậm ngùi tang thương, được mất trong phút chốc của kiếp người?
Nên thôi, đừng quá tham danh đoạt lợi mà phải gánh những kết cuộc bi thảm.
Nên thôi, sống thì gắng làm lành, tránh dữ, kẻo lúc chết rồi, hồn cứ trầm luân hoài vào chốn lạc lõng, bơ vơ.
Nói đến ma, nhưng không dọa ma, nói đến quỷ nhưng không nhát quỷ, ấy là tài tình của Nguyễn Du. Ông không dọa, không nhát ai cả. Ông chỉ nói lên những điều ông cảm ra được, những điều ông được may mắn thọ nhận, khi ông dấn thân vào con đường học Phật.
Đọc Văn Chiêu Hồn của Nguyễn Du, không cần phải đợi đến tháng bảy. Đọc để rõ thêm, kiếp phù sinh, kiếp phù du, huyễn ảo, bềnh bồng trôi giạt, như bọt nước, như chiếc bóng, chợt đến chợt đi, chợt có chợt mất, thật mà không thật, chẳng bền.
Kiếp Phù Sinh Như Hình Bào Ảnh!
Sài Gòn 19.03.2024
Phạm Hiền Mây
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não người thay buổi chiều thu
Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng.
**
Phần mở đầu có năm khổ, hai mươi câu. Tháng bảy âm lịch, theo quan niệm của Phật giáo, là tháng mở cửa âm ty, tháng xá tội vong nhân, tháng mưa ngâu sướt mướt, tháng toát hơi may lạnh buốt xương khô. “Hơi may” ở đây là heo may, gió heo may lạnh buốt xương khô. “Não” là não nùng, não nề thay buổi chiều thu, ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng.
****
Đường bạch dương bóng chiều man mác
Ngọn đường lê lác đác sương sa
Lòng nào là chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
**
Khung cảnh về chiều của những ngày tháng bảy là cảnh của lác đác ngọn sương sa, cảnh của bóng chiều man mác, khiến lòng người cũng trở nên buồn bã vô cùng. Người mà còn thế, huống hồ chi ma. Dương sao thì âm vậy mà.
****
Trong trường dạ tối tăm trời đất
Có khôn thiêng phảng phất u minh
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
**
“Trường dạ” nghĩa là đêm dài. Trong đêm dài đến tối tăm trời đất ấy, chắc hẳn phải có sự khôn thiêng của những hồn phách cô đơn đang còn lênh đênh, cho đến nay vẫn còn bờ bụi, chưa tìm được lối cho hồn về dựa dẫm, nghe kinh.
****
Hương khói đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen
Còn chi ai quý ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu.
**
Hồn không ai hương khói là hồn không nơi nương tựa. Hồn như vậy, sẽ mồ côi mà lần lữa giữa đêm đen, không còn phân biệt là quý hay là hèn, cũng không còn phân biệt là ngu hay là hiền nữa.
****
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tịnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ hồn về Tây phương.
**
Thế nên, vào đầu thu, tháng Bảy này sẽ lập đàn giải thoát cho vong hồn ra khỏi những khổ đau. Lấy nước trong tịnh bình của Thiên Thủ Quan Âm mà rưới hạt dương chi, muôn muôn cậy nhờ vào lòng đức Phật từ bi, mà giải oan cứu khổ, mà dìu hồn về Tây phương cực lạc.
******
Phần hai của bài văn tế gồm hai mươi bảy khổ, tổng cộng một trăm lẻ tám câu, Nguyễn Du lần lượt liệt kê mười ba loại vong hồn.
II/
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh
Chí những lăm cướp gánh non sông
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu
Lớn sang giàu nặng oán thù
Máu tươi lai láng xương khô rã rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc
Quỷ không đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.
**
Loại thứ nhứt là những nhà hoạt động chánh trị, hoàng vương đế bá một thời. Với tánh cách kiêu hãnh, đầu đội trời chân đạp đất, họ tính đường gánh vác chuyện non sông. Vướng vào buổi tranh hùng, vì không thuận lòng trời, không hợp lòng dân, họ đành đi vào bước đường cùng tận.
Chỉ trong thoáng chốc mưa sa ngói lở, họ thành ra kẻ thất phu. Khi sống càng chức tước, càng sang cả bao nhiêu, thì khi chết, lòng nặng oán thù càng chồng chất bấy nhiêu. Máu đổ càng nhiều thì xương khô càng vút.
Xưa, với kẻ thù, vua thường tru di tam tộc. Nên, số lượng này lên đến hàng trăm, hàng ngàn vong hồn nheo nhóc, do vong không có người nối dòng, không có người khói hương, thờ tự. Cạnh đó, còn có rất nhiều quỷ không đầu, đi tìm thân mình than khóc suốt đêm. Mới hay, cơ mưu là ở nhân nhưng thành bại lại ở thiên. Số cô hồn đông đúc như thế, Nguyễn Du ngậm ngùi, biết bao giờ mới cho tan niềm oan khuất.
****
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung quế hằng nga
Một phen thay đổi sơn hà
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu.
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo một đêm một rầu.
**
Loại thứ hai là tầng lớp vương phi, giàu sang, phú quý, các bà hoàng, các cung tần mỹ nữ từng một thời sống trong màn lan trướng huệ, từng được tung hô là người đẹp nơi cung quế hằng nga, từng nghiêng nước nghiêng thành, từng khuynh đảo giang sơn, đứng trước sinh tử, thân tựa chiếc lá, giờ đây, vong hồn chẳng biết phải về đâu.
Từng ngồi cạnh ngôi cao chín bệ, nhưng khi đã trâm gãy bình rơi, thì cũng như nước chảy qua cầu, mới hôm qua còn đông đúc vui cười, mà nay đã chẳng người nhặt xương khi nhắm mắt.
Không hương không khói đã đành một lẽ rồi, bây giờ thành ma, thì cũng vẫn là ma nữ nhi, chân mềm tay yếu, không người hầu hạ, ngẩn ngơ trước suối trước rừng, hái trái sim ăn thôi mà cũng còn mệt lử. Hồn vì thế, mỗi năm vất vơ là mỗi năm thêm héo mòn héo mỏi.
****
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng
Ngọn bút son thác sống ở tay
Kinh luân găm một túi đầy
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang
Cô hồn thất thểu dọc ngang
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.
**
Loại thứ ba là những quan văn, mũ cao áo rộng, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, vung ngọn bút lên là có thể cho ai sống mới được sống, hạ ngọn bút xuống là có thể muốn ai chết thời phải chết, như Quản Trọng tướng nước Tề, như Gia Cát Lượng tướng của vua Hán Thục, như Y Doãn tướng nhà Thương, như Chu Công tướng nhà Chu vậy.
Càng thịnh thế, càng thỏa mãn bao nhiêu thì oán thù lại càng lắm bấy nhiêu. Khi chết đi, số vong oán hờn ấy không biết bao nhiêu mà kể. Xưa trên dương thế, vàng muôn bạc trượng, giờ chết ra ma, vàng bạc ấy cũng chẳng thể mang theo mà đổi lấy việc xóa hận thù.
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước / Biết lấy ai bát nước nén nhang / Cô hồn thất thểu dọc ngang / Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.
****
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung
Gió mưa sấm sét đùng đùng
Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc
Bãi sa trường thịt nát máu rơi
Bơ vơ góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao.
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét
Khí âm huyền mờ mịt trước sau
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu
Nào đâu điếu tế nào đâu chưng thường.
**
Loại thứ tư là những quan võ, những kẻ quen bài binh bố trận, liều mình cướp ấn nguyên nhung. Được ăn cả, ngã về không. Một là chết, hai là vinh quang tận hưởng đời đời con cháu.
Ra trận, nào ai tính được thế cờ thắng thua. Giữa sa trường vùi thây là chuyện trong chớp mắt và thường tình. Thịt xương vung vãi, chất chồng. Thịt góc bể, máu chân trời, nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao.
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét / Khí âm huyền mờ mịt trước sau / Ngàn mây nội cỏ rầu rầu / Nào đâu điếu tế nào đâu chưng thường.
Chết còn không nhận ra đâu là xương cốt thì làm sao hồn có thể trọn vẹn mà quay về dương gian để nhận những phẩm vật cúng tế, những lời ai điếu thương tưởng của bốn mùa xuân hạ thu đông.
****
Cũng có kẻ tính đường trí phú
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai.
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù du dẫu có như không
Sống thời tiền chảy bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm
Nén hương giọt nước biết tìm vào đâu.
**
Loại thứ năm là thương nhân, người buôn bán. Một đời toan tính làm giàu. Cần kiệm, bóp mồm bóp miệng, nhịn ăn nhịn mặc, chỉ biết có tiền, bỏ bạn bỏ bè, làm ngơ bà con họ tộc, giấu giấu diếm diếm tài sản.
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ / Của phù du dẫu có như không / Sống thời tiền chảy bạc ròng / Thác không đem được một đồng nào đi.
Đến lúc chết, chẳng ai nhỏ một giọt nước mắt xót thương. Nếu có ai khóc, thì đấy là khóc mướn, vì tiền mà giả bộ khóc thôi. Khi chết, những vong ấy rất buồn, vì chẳng ai đến viếng mình, và cũng chẳng ai đi đưa mình cả.
****
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha phương
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
**
Loại thứ sáu là trí thức, những người cố gắng học hành, lập chí, mong đỗ đạt làm quan. Họ từ làng quê, bỏ ruộng bỏ vườn, bỏ vợ con, bỏ cha mẹ, để vào kinh đô tìm thầy, ứng thí.
Đó là một hành trình dài, vài năm chớ không phải ít. Ăn bờ ngủ bụi, chịu nắng chịu mưa là lẽ thường tình. Lúc ngã bệnh, vợ con, anh em, cha mẹ ở xa, không ai chăm sóc. Cứ thế bên vệ đường, dưới gốc cây, bên mái lá hàng nước dừng chân, đành bỏ mạng. Bá tánh họ bó chiếu, khâm liệm, chôn giùm. Người dưng, thành thử, hóa thành anh em họ mạc.
Những vong hồn tha phương ấy, không thể tìm được đường về nhà. Họ bị chôn ở một nơi xa lạ, chung quanh chẳng một kẻ quen. Họ quanh quẩn trong gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
****
Cũng có kẻ vào sông ra bể
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.
**
Loại thứ bảy là ngư phủ, người làm nghề biển, họ vào bể ra sông. Quanh năm suốt tháng, họ cậy nhờ biển đông mà kiếm con cá, con tôm độ nhật. Gặp buổi rủi xui, tận mạng, giông tố, gió mưa kéo đến giữa dòng, thì thân trở thành mồi cho cá rỉa giữa đại dương.
****
Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao.
**
Loại thứ tám là nông dân. Trồng lúa xong thì đóng thóc, đóng gạo mang đi bán. Chợ gần không có, thời phải chợ xa. Đòn gánh tre trên vai, họ rong ruổi tháng ngày. Những hiểm nguy trên đường, nào ai biết trước, nào ai tránh được. Có khi bị cướp bóc. Lại có khi do lao lực quá mà sinh ra bệnh tật, đột ngột bỏ mạng trên đường. Hồn lạc loài, không biết phải về đâu.
****
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan
Nước khe cơm ống gian nan
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
**
Loại thứ chín là binh lính, chiến sĩ. Thời bình thì phải phụng lệnh, làm việc theo sai bảo của quan nha. Uống thì nước khe. Cơm thì nhóm lửa giữa đường, dùng ống tre mà nấu chín. Dãi dầu mưa nắng sớm hôm, cực khổ, lầm than, không biết bao nhiêu mà kể.
Thời chiến tranh, mạng người như cỏ rác. Hòn đạn mũi tên nào có mắt, người chết vô số kể. Hồn đông như rạ. Hồn thành những ngọn ma trơi, đêm đêm khóc than. Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
****
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Đâu chồng con tá biết là cậy ai.
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu.
**
Loại thứ mười là kỹ nữ, những người bán phấn buôn hương. Họ là những người có số phận nhỡ nhàng, phần nhiều vì hoàn cảnh mà liều thân, mang tuổi xanh để buôn nguyệt bán hoa, ngẩn ngơ khi trở về già, chồng con không có biết nhờ cậy ai.
Sống thì sống trong nhục nhằn, phiền não. Lúc chết rồi, lại trông nhờ hớp cháo lá đa. Đau đớn thay phận đàn bà. Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu.
****
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.
**
Loại thứ mười một là hành khất, kẻ ăn mày, ăn xin của bá tánh mà sống qua ngày. Họ nằm chân cầu, họ gối trên đất. Thương thay cũng một kiếp người. Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.
****
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi.
**
Loại thứ mười hai là tù nhân. Tù nhân, rất nhiều người bị mắc oan mà phải chịu tù đến hết đời. Khi chết, may mắn lắm thì được manh chiếu rách. Nắm xương tàn chôn ở rìa thành. Biết đến kiếp nào mới cởi được nỗi oan tình lúc sống.
****
Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế vào ra
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
**
Loại thứ mười ba là tiểu nhi, các bé sơ sinh. Vì lỗi giờ sinh, nên các em phải sớm lìa cha lìa mẹ. Không được ru dỗ, ẵm bồng, bé chỉ kịp u ơ khóc. Thương cảm biết là bao.
******
Phần thứ ba của bài văn tế, gồm bảy khổ, hai mươi tám câu này, Nguyễn Du đã mô tả sự đau khổ, thê lương, của các vong hồn, vì lẽ này hay lẽ kia, hồn không nơi nương tựa, phải chịu vất vưởng, bơ vơ.
Xin nguyện họ, sống khôn thác thiêng, mau lần tìm đến nơi có Phật mà nghe kinh, đặng nhờ siêu thoát!
III/
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái
Người thì sa nanh sói ngà voi
Có người hay đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ.
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là bụi cỏ bóng cây
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
Hoặc là nương thần từ Phật tự
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre.
Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết
Gan héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
******
Phần thứ tư, gồm bảy khổ, hai mươi tám câu, Nguyễn Du dâng lời thỉnh cầu, xin phép Phật nhiệm màu, giúp cho các vong hồn được giải thoát. Cuối cùng là lời mời các vong hồn tới nhận lễ cúng của dương gian.
IV/
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hoà tứ hải quần chu
Não phiền rũ sạch oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh
Có chữ rằng vạn cảnh giai không
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có chi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu
Phép thiêng biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
******
Kết
Trong mười ba loại chúng sinh, không thấy Nguyễn Du đề cập đến người đã xuất gia, tức giới Tăng Ni. Có lẽ do ông nghĩ rằng, giới ấy, khi viên tịch, sẽ thành Phật đạo, nên bỏ qua chăng?
Không chỉ là một bài văn chiêu hồn đơn thuần, bài văn tế thập loại chúng sinh gần hai trăm câu này còn là lời cảnh tỉnh của Nguyễn Du với con người sống trong cõi tạm bợ.
Có thấy chăng những ngậm ngùi tang thương, được mất trong phút chốc của kiếp người?
Nên thôi, đừng quá tham danh đoạt lợi mà phải gánh những kết cuộc bi thảm.
Nên thôi, sống thì gắng làm lành, tránh dữ, kẻo lúc chết rồi, hồn cứ trầm luân hoài vào chốn lạc lõng, bơ vơ.
Nói đến ma, nhưng không dọa ma, nói đến quỷ nhưng không nhát quỷ, ấy là tài tình của Nguyễn Du. Ông không dọa, không nhát ai cả. Ông chỉ nói lên những điều ông cảm ra được, những điều ông được may mắn thọ nhận, khi ông dấn thân vào con đường học Phật.
Đọc Văn Chiêu Hồn của Nguyễn Du, không cần phải đợi đến tháng bảy. Đọc để rõ thêm, kiếp phù sinh, kiếp phù du, huyễn ảo, bềnh bồng trôi giạt, như bọt nước, như chiếc bóng, chợt đến chợt đi, chợt có chợt mất, thật mà không thật, chẳng bền.
Kiếp Phù Sinh Như Hình Bào Ảnh!
Sài Gòn 19.03.2024
Phạm Hiền Mây