Giáo Sĩ Francisco de Pina (trái) và Giáo Sĩ Alexandre de Rhodes (phải)
Bất cứ một sản phẩm gì do con người tạo ra cũng trải qua nhiều lần thử nghiệm trước khi giới thiệu cho quần chúng sử dụng. Ngay cả một thời gian sau đó, người ta vẫn còn thăm dò và sửa đổi khi phát hiện ra những điều trở ngại, sai sót. Con người cầu toàn, nhưng dường như trên đời này không có cái gì hoàn mỹ như ý.
Cách đây vừa đúng 400 năm, nhà truyền giáo người Portugal là Francisco de Pena sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ trên căn bản mẫu tự Latin. Sau đó, Giáo Sĩ Alexandre de Rhodes soạn cuốn Tự Điển đầu tiên. Sự áp dụng còn hạn chế trong hơn hai thế kỷ sau đó vì triều đình nhà Nguyễn vẫn còn duy trì Hán tự trong công việc triều chính, và trong dân gian thì chưa phát triển nền giáo dục phổ thông để xóa nạn mù chữ. Chữ Quốc Ngữ chỉ thực sự thịnh hành từ sau năm 1879, khi nhà cầm quyền thực dân Pháp ban lệnh bắt buộc dùng nó trong các chương trình giáo dục. Cũng cần biết là trước đó mười năm, chữ Quốc Ngữ đã thay thế hoàn toàn chữ Hán trong hành chánh công quyền. Từ đó đến nay, cũng đã có nhiều lần biến cải; nhiều chữ không còn giống như chữ thời ông Pina.
Trong thời đại chúng ta, đã có vài nhà nghiên cứu, nhà hoạt động văn hoá, chính trị từng đề nghị những cải cách để làm cho cách viết chữ Quốc Ngữ gọn hơn, hợp lý hơn. Điều này thiết tưởng cũng là nhu cầu chính đáng một khi trong sự áp dụng, người ta tìm ra những điểm không thích ứng.
Cải cách các mẫu tự:
Khi còn lang bạt bên Hoa Nam, Hồ Chí Minh có chủ trương cải cách chữ Việt với một số đề nghị thay một số các nguyên âm và phụ âm như chữ C thành chữ K, chữ PH thành chữ F, hai chữ GI, D thành chữ Z… Hồ đã viết cuốn Đường Kách Mệnh như một khuyến khích sử dụng chữ mới.
Cách đây vài năm, Bùi Hiền, phó “hiệu trưởng” trường Đại Học Ngoại Ngữ Hà Nội ở Việt Nam có đưa ra một đề nghị thay đổi gần như toàn bộ các mẫu tự.
Những phụ âm mà ông ta đề nghị thay đổi:
C thay cho hai chữ Ch, Tr
D thay cho chữ Đ
G thay cho chữ G, Gh
F thay cho chữ Ph
K thay cho cả ba chữ C, Q, K
Q thay cho hai chữ Ng, Ngh
X thay cho chữ Kh
W thay cho chữ Th
Z thay cho chữ D, Gi, R
N’ thay cho chữ Nh
Như thế, các chữ ngôn ngữ sẽ thành qôn qữ, giáo dục thành záo zục, tiếng sẽ thành tiêq, chữ thành cử, hai chữ quả và của sẽ được viết giống nhau: kủa, Nguyễn Trung Dũng sẽ thành “Quyễn Cuq Zũq.”
Sau đây là một đoạn văn
“Ngoại ngữ quy định trong chương trình giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong giao dịch quốc tế. Việc tổ chức dạy ngoại ngữ trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác cần đảm bảo để người học được học liên tục và có hiệu quả.”
Mà theo cách viết của ông Bùi Hiền sẽ là:
“Qoại qữ kuy dịn’ coq cươq cìn’ záo zụk là qôn qữ dượk sử zụq fổ biến coq zao zịk kuốk tế. Việk tổ cứk zạy qoại qữ coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák kần dảm bảo dể qười họk liên tụk và kó hiệu kuả.”
Nhìn vào các hàng chữ trên, chúng tôi chỉ thấy một hiện tượng khó chấp nhận. Nhiều học giả và ngay cả dân chúng bình thường đã phê bình rất gay gắt sự cải cách kỳ quái của Bùi Hiền. Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Bình của khoa ngôn ngữ học thuộc Đại Học Khoa Học Xã Hội Nhân Văn Hà Nội chê đó là “một điều dở, một sự phát triển thụt lùi.” Một số phê bình khác như sau:
1. Đi ngược tiến trình là tiếng nói (từ) có trước, chữ viết (tự) theo sau. Đàng này Bùi Hiền đặt ra chữ mới rồi hướng dẫn cách đọc.
2. Bùi Hiền lấy giọng nói Hà Nội làm chuẩn nên không giải quyết được hết những chữ mà do cách phát âm khác biệt của những miền khác nhau trên nước Việt.
3. Tạo thêm sự phức tạp thì đúng hơn là đơn giản hoá.
Có khoảng trên 100 triệu dân Việt Nam thuộc thế hệ này và ít nhất hai thế hệ kế tiếp đang sử dụng chữ viết hiện nay. Rồi phải tổ chức cho họ đi học cải cách ư? Mất thêm mấy chục năm nữa?
Một vấn đề cũng lớn lao không kém. Hiện có hàng triệu đầu sách, tài liệu, báo chí, với hàng tỷ ấn bản trong các thư viện, thư tàng, văn khố trong nước cũng như tại nhiều quốc gia khác. Một sự cải cách tận gốc như thế dẫn đến việc phải bỏ ra hàng chục năm với ngân khoản hàng trăm triệu đô la để thay thế các văn bản đó. Liệu có phải là điều nên làm hay không?
May quá! Đề nghị của Bùi Hiền không được sự đánh giá chính thức nào và như thế, chưa được công nhận của giới chuyên về ngôn ngữ học.
Nhận xét chung:
Gạt qua một bên vấn đề chính trị và tình cảm thương ghét, thân thù, Quốc Cộng, chúng tôi thấy trong hai đề nghị của Hồ Chí Minh và Bùi Hiền chỉ có 3 mẫu tự là cần cứu xét thôi.
Hiện nay, Anh ngữ đang là sinh ngữ phổ biến nhất trên thế giới. Hoa ngữ tuy có gần một tỷ rưỡi người dùng, nhưng không dùng mẫu tự Latin và lại có quá nhiều giọng (dialect) khác nhau. Người Trung Hoa ở các tỉnh khác nhau còn chưa thể trò chuyện với nhau nếu không dùng tới chữ viết. Vì thế, tiếng Hoa có thể sẽ chẳng bao giờ trở thành thông dụng trên thế giới.
Bộ mẫu tự của tiếng Việt chúng ta lấy từ gốc Latin, vì thế, nó rất gần gũi với mẫu tự dùng trong Anh ngữ, Pháp ngữ. Chúng ta chỉ thiếu các phụ âm chính F, J, W, Z. Nhưng bù lại chúng ta có thêm các phụ âm Đ và phụ âm kép như KH, NG, NH mà người Tây Phương khó phát âm.
Nếu cần, thì chỉ nên thay ba mẫu tự sau mà thôi:
1. Thay mẫu tự Đ bằng mẫu tự D.
Qua kinh nghiệm thực tế, khi tiếp xúc với ngôn ngữ Việt Nam, người ngoại quốc đã phát âm tên Dung thành Đung, Duy thành Đuy. Người Việt phải chua thêm chữ Z vào sau chữ D để họ biết cách đọc (Dzuy, Dzung).
Vì vậy, nên trả lại cách đọc Đ cho phụ âm D để mọi người đều có thể đọc như đúng như trong Anh và Pháp ngữ.
Ví dụ: Dộc lập, da doan, dồng ý…
2. Còn mẫu tự D của chúng ta đang dùng, nên thay bằng mẫu tự Z mà cách phát âm không sai chệch gì.
Ví dụ: Zuy, Zung, Zân tộc, Ziên Hồng. Trong Anh ngữ có Zoo, Zoom, Zebra…
3. Thay GI bằng Y. Trong tiếng Anh, mẫu tự Y khi đứng trước một nguyên âm thì được phát âm như GI trong tiếng Việt Nam.
Ví dụ: Young, Yell, Year, You; so với Giận hờn, Giữ Gìn, Gia tài…
Những chữ không cần thay thế:
1. Chữ QU (Quốc, Qua, Quyên…) trong tiếng Việt đọc không khác chữ QU trong Anh ngữ (Queen, Quota, Quit…)
2. Phụ âm PH trong Anh Pháp ngữ cũng có dùng (telephone, phonetic, phrase, pharmacy), và cũng đọc như phụ âm F (fight, fever, font). Vì thế cũng không cần thay PH bằng F.
3. Chữ C thay bằng chữ K cũng không cần thiết vì cách đọc cũng chẳng khác nhau.
4. Các mẫu tự kép KH, NH, NG, TR không có chữ đọc tương đương trong Anh hay Pháp ngữ; việc thay thế là không thực tế.
Mời quý vị đọc vài hàng với ba mẫu tự D, Đ, GI được thay thế; xem có được mắt hay không:
Chúng tôi di về hướng dông. Nơi dây, chúng tôi thấy một khu ya cư của các ya dình dã dến lập nghiệp trong chương trình zinh diền của cụ Ngô Dình Ziệm. Một số dã khá yả, vài người dã yàu có.
Một vài đề nghị cải cách khác:
A. Cách đặt các dấu về âm sắc (tone marks)
Người Tây Phương thường khen rằng người Việt Nam có giọng nói líu lo như chim hót!
Đó là do tiếng Việt đặc biệt có âm sắc lên xuống trầm bổng khi nói. Đúng ra là có 6 âm sắc mà lúc viết ra ngoài âm chính (neutral), phải dùng thêm 5 dấu để diễn đạt: huyền, sắc nặng, hỏi, và ngã.
Ví dụ: Ma, Mà, Má, Mạ, Mả, Mã.
Trước hết chúng ta tạm đồng ý các thuật ngữ sau:
Đơn âm: là nguyên âm chính và phụ: a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, và y.
Hợp âm đôi (dyads): do sự ghép hai nguyên âm với nhau như: au, ao, ai, ay, êu, ie, io, oa, oi, ua, ue, ui, uo,uy…
Hợp âm ba (triads) do sự ghép thành bởi ba nguyên âm như: ieu, uye, oai…,
Đối với những chữ đơn âm – chỉ có một nguyên âm, thì việc đặt dấu rất đơn giản. Nó đi theo nguyên âm đó.
Ví dụ: bông hoa, bồng em, cá bống, bộng (một loại nồi đất to), bay bổng, bỗng nhiên.
Đối với những chữ có hai nguyên âm đi liền nhau, việc đặt dấu thường có các khuynh hướng khác nhau.
1. Khuynh hướng thông thường có hàng trăm năm nay là đặt dấu sao cho cân đối. Cách đặt dấu như thế này thấy trong các tự điển Việt Nam.
Ví dụ: Hòa nhã, Diễm Thúy, bại hoại…
2. Một khuynh hướng khác cho rằng nên đặt dấu trên các “chủ âm.”
Khi hỏi thế nào là “chủ âm,” người cổ động cách đặt dấu này giải thích rằng “nhìn vào cái môi khi chúm lại để biết chủ âm là gì.” Câu giải thích này rất khó hiểu vì cái môi khi phát âm chữ ôi, ui, uy… cũng chúm lại, nhưng dấu thì lại đánh vào những chỗ không thống nhất.
Cách giải thích rõ hơn là của ông Trần Ngọc Dụng. Ông gom các hợp âm thành ba nhóm:
1. Nhóm 1 gồm 18 hợp âm đôi nào mà không có mẫu tự nào theo sau chúng (nói rõ thêm là hợp âm đôi này ở cuối của chữ):
ai, ao, au, ay, âu, ây, eo, êu, ia, iu, oi, ôi, ơi, ua, ui, ưa, ưi, ưu.
Trong các hợp âm đôi đó, nguyên âm đầu là chủ âm, và dấu sẽ đánh trên nó.
Thí dụ: bài, cào, gàu, hãy, lẩu, kẹo, nghêu, mía, níu, roi, phổi, rơi, chúa, túi, dừa, ngửi, cừu.
2. Nhóm 2 gồm 6 hợp âm đôi mà luôn có mẫu tự theo sau mới được:
iê, oă, oo*, uâ, uô, ươ.
Trong các trường hợp này, dấu đặt trên chữ thứ hai, vì đó là chủ âm.
Thí dụ: biển, hoặc, soọt (quần shorts), tuần, muỗng, phước.
3. Nhóm 3 gồm 5 hợp âm đôi, tuỳ theo chữ, khi có mẫu tự theo sau, khi không cần có:
oa, oe, uê, uơ, uy.
Trong các trường hợp này – cũng như trường hợp nhóm 2, dấu đánh trên chủ âm là chữ nguyên âm thứ hai.
Thí dụ: hoà – hoàng, khoẻ – khoẻn, tuế – tuếch, huý – huýt.
Riêng các hợp âm ba (triads):
Iêu, oai, oao, oay, oeo, uây, uôi, uya, uyu, ươi, ươu.
Dấu đánh trên chủ âm là nguyên âm nằm ở giữa. Ví dụ: chiều, xoài, ngoáo, xoáy, ngoẻo, khuấy, muỗi, tuyết,tuyên, khuỷu, người, rượu, mưỡu.
Một ngoại lệ là trường hợp hợp âm uyê vì nó luôn phải có một mẫu tự theo sau (uyên, duyệt).
Đề nghị cách đánh dấu này đang đuợc cổ động. Tuy nhiên chưa có một cơ quan thẩm quyền nào cấp quốc gia đưa ra để cứu xét và phê thuận.
Dó đó, chúng ta không thể dựa trên cơ sở nào để đánh giá đúng sai trong cả hai khuynh hướng.
B. Viết chữ “i” hay “y”?
Phần này, chúng tôi xin trích nguyên văn một phần bài viết có tựa đề: “Cách Viết I và y” của tác giả Bạch Diện Thư Sinh Trần Vinh (Phụ bản 6 trong sách Mặt Trận Đại Học Thời VNCH, trang 393-394. Thằng Mõ San Jose tái bản năm 2016).”
Trích:
“Trong ý hướng tiến tới việc thống nhất chính tả tiếng Việt, chúng tôi chủ trương viết I khi âm /I/ là nguyên âm hay là phần âm chính của âm tiết, không phân biệt từ đó là thuần Nôm hay Hán Việt. Thí dụ: Bí, di, gì, hỉ, kị, lí, mĩ, ni, rỉ, sĩ, tị, vì, xí… , nhưng ai đã viết tên riêng của mình cách nào, chúng tôi sẽ giữ nguyên.
Thí dụ: Nguyễn Cao Kỳ, Lý Bửu Lâm, Lý Chánh Trung…
Riêng trường hợp khi chữ I đứng một mình, chúng tôi theo ý nhiều nhà ngữ học, tạm thời chấp nhận cả hai cách viết I hoặc Y.
Thí dụ: Âm ỉ, ầm ĩ, nhưng có thể viết y tế, y thị, ý kiến, ỷ lại.
Xin nói thêm, chúng tôi viết UY chứ không viết UI những chữ phát ra âm /uy/.
Thí dụ: Quy, quý, quýt…, chứ không viết qui, quí, quít… (tránh được trường hợp Thuý và Thúi), nhưng ai đã viết tên riêng của mình cách nào, chúng tôi sẽ giữ nguyên. Thí dụ: Lý Quí Chung…
Đó cũng là cách viết của một số vị có công trình nghiên cứu về Ngữ Học Việt Nam, như TS. Nguyễn Đình Hoà (giáo sư Ngôn Ngữ và Văn Minh Văn Hoá VN tại VN và HK, khoa trưởng ĐH Văn Khoa Sài Gòn (1957), đồng sáng lập Viện Việt Học, 2000, HK), BS. Trần Ngọc Ninh (giáo sư ĐH Y Khoa Sài Gòn, giáo sư ĐH Vạn Hạnh, tổng trưởng Văn Hoá Xã Hội Đặc Trách Giáo Dục VNCH (1967), nguyên viện trưởng Viện Việt Học, HK), học giả Nguyễn Hiến Lê (#120 tác phẩm, Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc, 1966).
Cách nay không lâu, GS. Đoàn Xuân Kiên (Luân Đôn) cũng nêu lên quan điểm rõ ràng về vấn đề này. Sau khi điểm qua các sách báo, các bộ từ điển và những cuộc tranh luận từ thế kỉ 17 tới nay, GS. Đoàn Xuân Kiên đã đúc kết thành nguyên tắc 5 điểm về cách viết chính tả hai chữ I và Y như sau:
Viết Y trong những trường hợp sau đây:
1) khi tổ âm /iê/ ở đầu một tiếng. Ví dụ: yên, yêu, yết.
2) trong các tổ âm chúm môi /ui/ và /uiê/ (viết là uy, uyê, uya).
Ví dụ: uy, chuyện, khuya, nguy, tuy.
3) ở sau âm ngắn của a (trong chính tả hiện nay cũng viết bằng đồ vị /a/ và âm ngắn của ơ (tức là đồ vị /â/).
Ví dụ: cay, dày, đây, mây.
Viết I trong những trường hợp sau đây:
4) khi âm /i/ là nguyên âm, hay là phần âm chính của âm tiết.
Ví dụ: ỉ, bí, chim, hí, kìm, lì, lính, sĩ, tị, vì, vinh.
5) Khi âm /i/ là âm cuối, đứng sau phần âm chính ở thể thường, để khép âm tiết.
Ví dụ: ngùi, đói, người, củi, hời, trai.
(Đoàn Xuân Kiên. Nói Thêm Về Chữ I và Y Trong Chính Tả Tiếng Việt. Định Hướng 32, tr. 45,46. Mùa Thu 2002, Hoa Kì).
Chính tả hai chữ I và Y thuộc phạm vi môn Ngữ Học Việt Nam. Môn học nào cũng có những nguyên tắc riêng. Giá trị của một nguyên tắc ngữ học căn cứ vào mức độ chính xác, hợp lí và những lợi ích mà nó mang lại chứ không dựa trên bất cứ quan điểm chính trị hay tôn giáo nào cả. Trên thực tế, nhiều người chủ trương bảo lưu thói quen “đã viết (I và Y) như thế từ hồi học Mẫu giáo”. Có lẽ các nhà nghiên cứu ngữ học cũng thông cảm phần nào với lối suy nghĩ của số đông này, song đã là nhà khoa học thì các vị ấy thường không bị lệ thuộc vào thói quen hay phong tục tập quán.”
Ngưng trích.
Nhận xét:
Việc cải cách để viết chữ I hay y cần đơn giản, dễ nhớ. Một luật lệ có nhiều nguyên tắc chung và nhiều ngoại lệ sẽ rắc rối vô cùng. Dĩ nhiên, sau khi thay đổi sẽ có những người phàn nàn rằng chữ mới trong không đẹp mắt!
Ví dụ: i khoa, i sĩ, kĩ sư, mĩ thuật…
Vậy sao chấp nhận chữ sĩ mà coi chữ kỉ là kỳ quặc? Có phải chỉ vì chủ quan mà thôi? Nhìn lâu quen mắt rồi sẽ đẹp cả!
Theo tôi, nếu muốn thay đổi cho thống nhất cách dùng, chúng ta viết “i” cho tất cả mọi chữ ngoại trừ hai ngoại lệ:
1. Khi nó đứng sau chữ “U” nếu đọc là “UY” thì dùng “Y” (thậm nguy, uy vũ. Thúy, qụy lụy, quyết, quyến luyến…); nếu đọc là “UI” thì dùng “I” (Tối thui, đui mù).
2. Khi nó đứng sau chữ “A” nếu đọc là “AY” thì dùng “Y” (táy máy, thầy dạy, lạy, dây, mây…);nếu đọc là “AI” thì dùng “I.” (hoa mai cài lên mái tóc).
Ngoài hai trường hợp trên, chỉ có nguyên âm I đứng sau mẫu tự O.. Không có chữ Việt nào có nguyên âm I hay Y theo sau nguyên âm E cả.
Quý vị có thấy nó đơn giản hay không.
Nhưng có thật sự cần thay thế không? Chữ Quốc Ngữ hiện nay coi là tạm ổn. Điều cần chấn chính ngay lập tức là cách dùng sao cho đúng ý nghĩa của nó, trên tiêu chuẩn tiếng Việt chúng ta đã dùng trước năm 1975 tại miền Nam.
Nói chung, nếu sự thay đổi có ý nghĩa, hợp lý thì nên làm. Còn nếu sự thay đổi mẫu tự không làm thay đổi cách phát âm và ý nghĩa, thì chỉ là một việc làm mất thì giờ, vô ích!
Quý vị nào viết tiếng Việt mà còn ngần ngại, lo sợ không chắc đúng sai thì nên tìm lại những tác phẩm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn mà đọc và học hỏi. Các nhà văn thời này viết rất chính xác và trong sáng.
Đỗ Văn Phúc